Cấp thiết hoàn tất khung pháp lý cho cây trồng chỉnh sửa gen
Tìm “sức sống” cho công nghệ sinh học Hà Nội: Phát triển công nghệ sinh học nông nghiệp, thủy sản đến năm 2030 Phát triển chăn nuôi bền vững bằng công nghệ sinh học |
Quang cảnh diễn đàn |
Ngày 5/10, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (Bộ NN-PTNT) và Báo Nông nghiệp Việt Nam đồng tổ chức Diễn đàn “Thành tựu và định hướng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế”.
Tại diễn đàn, nhiều chuyên gia cho rằng, công nghệ sinh học đã giúp nhiều giống cây mới được phát triển với khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn, giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
TS Đỗ Tiến Phát - Trưởng phòng Công nghệ tế bào thực vật, Viện Công nghệ sinh học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đại diện nhóm nhà khoa học đã phát triển và ứng dụng thành công các hệ thống CRISPR/Cas trong nghiên cứu cơ bản và cải tạo các giống cây thuốc lá, đậu tương, đu đủ, cà chua, dưa chuột và lúa. Các kết quả nghiên cứu được xuất bản trên nhiều tạp chí quốc tế uy tín, đã khẳng định thành công của nhóm.
Theo TS Nguyễn Duy Phương - Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử, Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Di truyền nông nghiệp đã sớm tiếp cận với công nghệ đột biến chính xác bằng CRISPR/Cas từ năm 2017. Viện cũng là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam được giao thực hiện đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước về ứng dụng công nghệ CRISPR/Cas.
“Định hướng nghiên cứu của viện tập trung vào phát triển dòng lúa đột biến chủ lực TBR225. Dòng lúa được phát triển sau này sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ nhiễm độc kim loại Cadmium khi lúa được canh tác trên vùng đất có hàm lượng Cadmium cao, góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng”, TS Nguyễn Duy Phương khẳng định.
Tuy nhiên, theo TS Cao Đức Phát - nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế - IRRI", điều đáng tiếc là áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam còn chậm, khoảng cách với thế giới có xu hướng ngày càng tăng và chưa đạt mục tiêu của Đảng, Nhà nước đặt ra. Trong đó, cản trở chính là nhận thức".
Công nghệ sinh học giúp nhiều giống cây mới được phát triển với khả năng chống chịu sâu bệnh tốt hơn, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm. |
Trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0, công nghệ số, công nghệ AI… cũng là một bước đệm giúp công nghệ sinh học có thể phát triển mạnh hơn. Do đó, TS Cao Đức Phát kêu gọi cần phải có chiến lược đào tạo nhân lực, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để tận dụng xung lực từ công nghệ sinh học.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Ninh - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), nghiên cứu khoa học công nghệ luôn có độ trễ so với thực tế. Những điều chỉnh hôm nay phải nhiều năm sau mới bắt đầu phát huy tác dụng. Tác động của công nghệ sinh học, vì thế, tương đối khó cảm nhận.
Trong giai đoạn từ nay đến 2030, số lượng nhiệm vụ khoa học công nghệ bị giảm so với cách đây 10 năm. Một phần nguyên nhân, theo ông Ninh, là rào cản về các cơ chế, chính sách, điển hình là Nghị định 70. Cụ thể, kết quả nghiên cứu thuộc phạm vi đầu tư của ngân sách Nhà nước sẽ được xem là tài sản Nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp thời gian qua kém mặn mà trong việc phối hợp, đầu tư nghiên cứu công nghệ sinh học.
GS.TS Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp cho hay, song song với việc nghiên cứu các giống chỉnh sửa gen, Việt Nam cũng cần triển khai đồng bộ các khung khổ pháp lý cho giống cây trồng này phát triển. Đây là yếu tố quan trọng khi thế giới đã tiến rất xa về chỉnh sửa gen.
Việc nâng cao công nghệ chỉnh sửa gen, theo GS.TS Lê Huy Hàm, hết sức cần thiết, nhằm giúp sản phẩm Việt Nam tránh khỏi những ràng buộc không đáng có đối với sản phẩm biến đổi gen (GMO).