Chỉ số kinh tế:
Ngày 17/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.146 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.934/26.348 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Doanh nghiệp “xanh hóa” để thích ứng chuỗi cung ứng toàn cầu

ĐT
ĐT  - 
Sau khi Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, các doanh nghiệp bắt đầu tích cực xanh hóa thông qua ba bước quan trọng là: cắt giảm phát thải khí nhà kính; chuyển đổi sang sử dụng nguồn năng lượng xanh, năng lượng tái tạo; và hấp thụ khí nhà kính trong các hoạt động sản xuất.
aa

Trên thực tế, các ngành sản xuất, đặc biệt là dệt may, da giày, thép, xi măng… đã chính thức bước vào cuộc đua xanh hóa “bắt buộc”, khi thị trường quốc tế bắt đầu siết quy định về phát thải.

Giới chuyên gia nhận định, đạt Net Zero không đơn thuần là bảo vệ môi trường, mà là bảo vệ thị phần. Doanh nghiệp nào không chuyển đổi sẽ bị loại khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo đó, không ít tập đoàn lớn đã đầu tư hàng triệu USD để lắp đặt điện mặt trời áp mái, thay thế lò hơi đốt than bằng sinh khối, ứng dụng phần mềm giám sát phát thải...

Tổng công ty May 10 - CTCP đã xây dựng lộ trình để đầu tư máy móc, công nghệ sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, giảm lượng khí thải carbon; đầu tư và tăng cường sử dụng năng lượng mặt trời, điện sinh khối; liên kết chuỗi sản xuất tại Việt Nam và nước ngoài để sử dụng nhiều nhất các sản phẩm từ tái chế, từ thiên nhiên để đảm bảo tỷ trọng xuất xứ nguyên liệu từ sợi trong cấu thành của sản phẩm… trong nhiều năm qua.

Tính đến cuối năm 2024, May 10 đã thay thế 90% lò đốt than tại các xưởng sản xuất bằng lò đốt viên nén biomass với mục tiêu giảm phát thải 20.000 tấn carbon ra môi trường trong năm 2025. Tổng công ty cũng đặt mục tiêu phủ kín điện mặt trời áp mái tại các đơn vị.

Doanh nghiệp “xanh hóa” để thích ứng chuỗi cung ứng toàn cầu
May 10 đề ra mục tiêu giảm phát thải 20.000 tấn carbon ra môi trường trong năm 2025

Bà Nguyễn Thị Huyền, CEO Công ty cổ phần Xuất khẩu quế hồi Việt Nam - Vinasamex (doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu các loại gia vị và tinh dầu hữu cơ) cho biết, các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mở ra cơ hội lớn cho những doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó có doanh nghiệp nông sản. Tuy nhiên, yêu cầu của các thị trường không chỉ là chất lượng mà còn ở vấn đề thương mại và phát triển bền vững. Yêu cầu này đã thúc đẩy doanh nghiệp tăng đầu tư cho bảo vệ môi trường và cắt giảm phát thải.

Chuyển từ triết lý kinh doanh theo chuỗi giá trị, sang kinh doanh tạo tác động xã hội, cùng với triển khai bộ tiêu chuẩn ESG, đã giúp doanh nghiệp không chỉ bước chân mà còn đứng vững tại các thị trường như châu Âu, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc. Cũng từ đây, doanh nghiệp tiếp cận được với các quỹ đầu tư, nguồn vốn xanh. Giá trị vô hình của doanh nghiệp đã được khẳng định, bên cạnh giá trị hữu hình.

“Giá trị hữu hình có thể 500 tỷ đồng, nhưng giá trị vô hình của doanh nghiệp có thể lên tới hàng nghìn tỷ đồng”, bà Nguyễn Thị Huyền nói.

TS. Hoàng Hiệp, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tăng trưởng xanh (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) nhận định, các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt trong việc hiện thực hóa Net Zero. Việc tích hợp tiêu chí ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) vào hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ giúp gia tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh một số doanh nghiệp tiên phong trong việc giảm phát thải khí nhà kính, vẫn còn một bộ phận doanh nghiệp họ biết quy định nhưng chưa chịu áp lực phải chuyển đổi nên họ chưa triển khai thực hiện.

Trước ý kiến cho rằng, hiện tại các doanh nghiệp gặp khó khăn về chi phí kiểm kê và đầu tư giảm phát thải. Về việc này, TS. Hoàng Hiệp chia sẻ, không phải thiếu tiền để thực hiện chuyển đổi xanh mà là thiếu hồ sơ chuẩn để được tài trợ, hỗ trợ cho vay ưu đãi lãi suất thấp. Nếu doanh nghiệp có lộ trình kiểm kê khí nhà kính rõ ràng, minh bạch, có mục tiêu giảm phát thải, thì sẽ có nhiều quỹ, nhiều đối tác sẵn sàng đồng hành.

“Hầu hết các quỹ quốc tế như Quỹ Khí hậu Xanh (Green Climate Fund - GCF), Quỹ Thích ứng (Adaptation Fund - AF), Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam trong nước đều yêu cầu doanh nghiệp phải chứng minh tư cách pháp lý rõ ràng và tuân thủ đầy đủ quy định về bảo vệ môi trường”, ông Hiệp nói.

Đồng quan điểm này, TS. Nguyễn Sỹ Linh, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường cho rằng, chuyển đổi xanh không đơn thuần là cải cách kỹ thuật, mà là “chuyển biến toàn diện trong tư duy phát triển, từ tăng trưởng bằng mọi giá sang tăng trưởng có trách nhiệm, bền vững”.

Trong cuộc chuyển dịch này, doanh nghiệp là mắt xích trung tâm. Họ không chỉ là nguồn phát thải chính, mà còn nắm trong tay nguồn lực tài chính, công nghệ và quyết định chuỗi sản xuất. Doanh nghiệp không thể đứng ngoài. Họ là người kiểm kê, là người nộp hạn ngạch, và nếu làm tốt, hoàn toàn có thể bán tín chỉ carbon như một giá trị mới.

Cùng với áp lực từ các thị trường như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, nơi mỗi đơn vị khí phát thải đều bị tính toán và truy vết, doanh nghiệp đang đứng trước 2 lựa chọn, hoặc chủ động chuyển đổi, hoặc bị đào thải khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, thị trường carbon trở thành công cụ linh hoạt, vừa giúp tối ưu chi phí, vừa mở ra nguồn thu mới. Nếu vượt hạn ngạch mà chưa đủ lực đầu tư, doanh nghiệp có thể mua tín chỉ. Nếu tiết kiệm hiệu quả, họ có thể bán lại cho bên khác.

Đặc biệt, doanh nghiệp “xanh” cũng sẽ có lợi thế vượt trội khi tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi như Quỹ Khí hậu xanh (GCF), Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) hay tín dụng xanh trong nước. Tất cả đang mở ra một hệ sinh thái mới, nơi “lợi ích” và “trách nhiệm” đi song hành.

Việc xây dựng chuỗi cung ứng xanh không còn là lựa chọn, mà là sự bắt buộc để tồn tại. Đây là một bài toán về quản trị và tư duy. PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng, Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế (Đại học Kinh tế Quốc dân) cho hay, doanh nghiệp cần chuyển đổi mô hình kinh doanh từ việc tính toán không đầy đủ về Net Zero sang Net Zero là một chuẩn mực cơ bản để xây dựng giá trị tầm nhìn và sứ mệnh của doanh nghiệp, điều chỉnh chiến lược theo chuẩn mực mới và hành động một cách chủ động.

Doanh nghiệp ở Việt Nam trong quá trình thực hiện tiến trình phát triển xanh với nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi họ không có chuyên môn và chuyên gia tham gia, hoặc không có tính đổi mới cao. Để giải quyết vấn đề này, theo ông Binu Jacob, Tổng Giám đốc Công ty Nestlé Việt Nam cho rằng, các doanh nghiệp cần phải có các đối tác đa phương. Không có công ty nào có thể giải quyết các vấn đề đơn phương được.

“Đồng thời, chúng ta cần xem xét tài năng của thế hệ trẻ. Trong 30 năm qua, khi chúng tôi làm việc ở Việt Nam, chúng tôi cũng đã tuyển chọn những người có tài năng thế hệ Z. Thế hệ này tập trung nhiều về tính bền vững. Họ tin vào nền kinh tế xanh và họ cũng có tri thức. Họ có suy nghĩ khác nhau và đưa ra các giải pháp đa dạng. Chúng ta cũng cần giáo dục, thay đổi nhận thức của người tiêu dùng để họ hiểu về Net Zero và hỗ trợ chúng ta. Nếu không được người tiêu dùng ủng hộ thì rất khó thực hiện mặc dù chi phí tái chế rất cao”, ông Binu Jacob chia sẻ.

ĐT

Tin liên quan

Tin khác

Vai trò chiến lược của Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 trong vận hành chuỗi Thị Vải - Nhơn Trạch

Vai trò chiến lược của Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 trong vận hành chuỗi Thị Vải - Nhơn Trạch

Dự án nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 (NT3&4) là mắt xích quan trọng của chuỗi liên kết Thị Vải – Nhơn Trạch, đồng thời là minh chứng rõ nét cho năng lực của PV Power và tầm nhìn dài hạn của Petrovietnam trong phát triển điện khí LNG. Thành công của dự án không chỉ giải được bài toán an ninh năng lượng mà còn là nền tảng để Việt Nam bước vào kỷ nguyên điện khí hiện đại, sạch và bền vững.
TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy ngành sản xuất lương thực thực phẩm chủ lực

TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy ngành sản xuất lương thực thực phẩm chủ lực

Chiến lược phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm thúc đẩy ngành lương thực thực phẩm Thành phố tiếp tục phát triển và giữ vững vai trò là một ngành sản xuất chủ lực
Quyết liệt xử lý dứt điểm IUU: Mệnh lệnh từ thực tiễn và ý chí quốc gia

Quyết liệt xử lý dứt điểm IUU: Mệnh lệnh từ thực tiễn và ý chí quốc gia

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp lần thứ 25 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Cuộc họp được kết nối trực tuyến đến 21 tỉnh, thành ven biển, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của cả nước trong hành trình gỡ “thẻ vàng” EC và xây dựng ngành thủy sản phát triển bền vững.
Doanh nghiệp cần chuẩn bị cho một môi trường biến động

Doanh nghiệp cần chuẩn bị cho một môi trường biến động

Trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều yếu tố bất định, các chuyên gia cho rằng, giai đoạn tới sẽ không còn là chu kỳ tăng trưởng thuận lợi, buộc doanh nghiệp phải chủ động thích ứng với một môi trường biến động kéo dài, nơi áp lực về vốn, lãi suất, tỷ giá và cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Làm chủ công nghệ và ươm mầm tri thức: Petrovietnam hướng tới tăng trưởng bền vững

Làm chủ công nghệ và ươm mầm tri thức: Petrovietnam hướng tới tăng trưởng bền vững

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu ngày càng cao về năng suất, chất lượng và hiệu quả, bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực khoa học – công nghệ chất lượng cao, trở thành điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò đó, Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) không chỉ tiên phong làm chủ các công nghệ chiến lược mà còn chủ động xây dựng chiến lược đào tạo, ươm mầm đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ, từng bước hình thành thế hệ công dân tri thức năng lượng mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Chiến lược nhân sự OPES: “Gen công nghệ” định hình hiệu suất vượt trội

Chiến lược nhân sự OPES: “Gen công nghệ” định hình hiệu suất vượt trội

Khi thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang chịu áp lực chuyển đổi mạnh mẽ, OPES nổi lên như một hiện tượng với định vị là một tổ chức công nghệ kinh doanh bảo hiểm. Sự khác biệt này không nằm ở khẩu hiệu, mà thấm sâu vào từng điểm chạm trong môi trường làm việc, tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt so với các doanh nghiệp truyền thống.
Thị trường đồ chơi Việt hấp dẫn nhà đầu tư ngoại

Thị trường đồ chơi Việt hấp dẫn nhà đầu tư ngoại

Lý do thị trường đồ chơi Việt thu hút nhà đầu tư là do tiềm năng thị trường lớn với quy mô dân số hơn 100 triệu người, lực lượng lao động trẻ dồi dào, nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh
Sầu riêng lập kỷ lục mới, dẫn đầu xuất khẩu nông sản

Sầu riêng lập kỷ lục mới, dẫn đầu xuất khẩu nông sản

Xuất khẩu sầu riêng trong 11 tháng ước đạt 3,4 tỷ USD, lập kỷ lục mới và giữ vị trí dẫn đầu nhóm nông sản. Thị trường Trung Quốc tiếp tục là động lực tăng trưởng với nhu cầu lớn và yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao.
Cơ hội để doanh nghiệp Việt xuất khẩu vào thị trường Trung Đông

Cơ hội để doanh nghiệp Việt xuất khẩu vào thị trường Trung Đông

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Israel (VIFTA) sau hơn một năm có hiệu lực đã đánh dấu một bước tiến mới trong hành trình mở rộng không gian kinh tế của Việt Nam. Dù là một trong những FTA “trẻ nhất” trong mạng lưới hội nhập của nước ta, VIFTA lại được đánh giá là một hiệp định có chiều sâu bởi mức độ cam kết cao, đặc biệt là về mở cửa thị trường hàng hóa và hợp tác công nghệ.
Thiếu hụt lao động toàn cầu thúc đẩy nhu cầu đối với mô hình quản lý cơ sở vật chất tích hợp

Thiếu hụt lao động toàn cầu thúc đẩy nhu cầu đối với mô hình quản lý cơ sở vật chất tích hợp

Sự thiếu hụt nhân sự đủ năng lực, cùng với tỷ lệ biến động lao động gia tăng và kỳ vọng của người lao động thay đổi, đang tạo ra khoảng cách lớn giữa nhu cầu thực tế và năng lực lực lượng lao động