“Mở khóa” tiềm năng kinh tế số
Để khai thác tiềm năng vô tận từ kinh tế số | |
Phát triển kinh tế số: Cần “chiếc áo” thể chế đủ rộng | |
Kinh tế số: "Chìa khóa" của tăng trưởng trong bối cảnh bình thường mới |
Điểm sáng từ đại dịch
Phát biểu tại Hội thảo “Tiềm năng kinh tế số Việt Nam” do Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) phối hợp với Tập đoàn Google tổ chức, ông Trần Duy Đông - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) nhận định, trong bối cảnh nền kinh tế bị tác động nghiêm trọng bởi đại dịch Covid-19, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhận xét về tình hình phát triển kinh tế số của Việt Nam, ông Jacques Morisset - Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) cho biết, trong đại dịch vừa qua, các doanh nghiệp Việt đã tiến rất nhanh, có những bước nhảy vọt trong chuyển đổi số. Cụ thể, đã có 60% các doanh nghiệp hiện đang sử dụng các nền tảng và công cụ trực tuyến, Chính phủ điện tử cũng đang cung cấp trên 2000 thủ tục trực tuyến. Ngoài ra, năng lực hấp thụ các công nghệ mới của doanh nghiệp Việt rất tốt, Chính phủ cũng đã nỗ lực hoàn thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng về chuyển đổi số.
Cần tháo gỡ nhiều rào cản để phát triển kinh tế số tại Việt Nam thời gian tới |
Với những chuyển biến này, Chuyên gia WB tin tưởng, Việt Nam nhất định sẽ thành công trong cuộc đua công nghệ số. Nhất là khi Việt Nam cũng có rất nhiều lợi thế để phát triển kinh tế số như: Dân số trẻ, có học thức và am hiểu công nghệ chiếm 70% công dân dưới 35 tuổi; tỷ lệ biết đọc và viết ở nhóm 15-35 tuổi trên 98% (cao hơn tỷ lệ trung bình toàn cầu là 91%) và khoảng hơn 70% dân số sử dụng điện thoại thông minh. Việt Nam cũng có nền kinh tế internet tăng trưởng nhanh thứ hai Đông Nam Á, chỉ sau Indonesia. Cùng với đó, chính sách để thúc đẩy kinh tế số ngày càng hoàn thiện hơn, sẵn sàng thử nghiệm các công nghệ mới.
Báo cáo “Tiềm năng kinh tế số Việt Nam” do AlphaBeta thực hiện đã chỉ ra, nếu được tận dụng tối đa trong nền kinh tế, công nghệ số có thể đem lại hơn 1,733 triệu tỷ đồng tương đương 74 tỷ USD cho Việt Nam vào năm 2030. Dự kiến, các lĩnh vực được hưởng lợi nhiều nhất là sản xuất, nông nghiệp và thực phẩm, giáo dục và đào tạo.
Tuy tiềm năng có thể thấy rõ nhưng vẫn còn nhiều rào cản được chỉ ra đối với việc phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Cụ thể, ông Jacques Morisset cho rằng, tuy năng lực hấp thụ các công nghệ mới của doanh nghiệp Việt rất tốt, nhưng công nghệ hiện đang áp dụng vẫn chưa cao, một số tiêu chí về an ninh mạng còn hạn chế.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của nền kinh tế số. Nghiên cứu do Liên minh Internet Á châu thực hiện cho thấy, các quy định về nội địa hoá dữ liệu và bảo vệ dữ liệu kết nối chậm, tốc độ băng thông rộng trung bình của Việt Nam ước tính chậm hơn đáng kể so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Cụ thể, chậm hơn khoảng 10 lần so với Singapore, chỉ bằng 1/3 Malaysia và 1/2 Thái Lan.
Nguồn nhân lực là “chìa khóa” then chốt
Nói về rào cản cần tháo gỡ để phát triển kinh tế số ở Việt Nam, bà Tenzin Dolma Norbhu - Giám đốc quan hệ Chính phủ và Chính sách công Đông Nam Á, Google châu Á-Thái Bình Dương cho biết, hồi năm 2019, Google có bản đánh giá và xác định 6 trở ngại của nền kinh tế số tại khu vực châu Á, trong đó có trở ngại về con người, tài năng, lòng tin, tiếp cận công nghệ và tiếp nhận kỹ thuật số. Đặc biệt, đến nay là năm 2021, vấn đề về con người vẫn đang là trở ngại lớn, điều này đặt ra bài toán về tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo.
Chung góc nhìn như vậy, ông Jacques Morisset nhấn mạnh vào trụ cột nâng cấp kỹ năng số của lực lượng lao động để phát triển kinh tế internet. Đại diện WB cho rằng trong một vài năm tới, cơ cấu thị trường lao động sẽ có nhiều thay đổi, khi công nghệ, nền tảng mới xuất hiện sẽ khiến một số ngành nghề biến mất nhưng cũng đồng thời tạo ra các công ăn việc làm mới.
Chính vì vậy đặt ra bài toán đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với các công nghệ mới, đảm bảo tính linh hoạt, sẵn sàng chuyển sang các ngành nghề khác. Ông Hoàng Nam Tiến - Chủ tịch FPT Telecom chỉ ra cần đào tạo cho bốn nhóm lao động trước tác động của nền kinh tế số.
Nhóm thứ nhất là hàng triệu lao động trẻ trong lĩnh vực may mặc, da giày, lắp ghép linh kiện điện tử. Về cơ bản 70% số lượng trong nhóm công nhân này sẽ thất nghiệp trong vòng 10 năm tới. Bởi khi đó, người máy sẽ thay thế.
Nhóm thứ hai là cần phải hướng tới mục tiêu đào tạo 1 triệu công dân toàn cầu. Để làm được điều này cần đến vai trò nòng cốt của các trường đại học và các doanh nghiệp lớn. Đơn cử như FPT Telecom, đang có khoảng 20.000 người làm việc cho thị trường Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Singapore. Điều này cho thấy mục tiêu 1 triệu người trẻ Việt Nam hoàn toàn có thể cạnh tranh sòng phẳng với thế giới về công nghệ, về trình độ.
Nhóm thứ ba là đào tạo cho những người làm chủ. Người làm chủ bao gồm cả các quan chức nhà nước, các lãnh đạo địa phương và đặc biệt là chủ các doanh nghiệp về việc sử dụng kỹ thuật số, sử dụng công nghệ.
Nhóm thứ tư là trẻ em. Việt Nam có gần 20 triệu học sinh, sinh viên. Thực tế này đòi hỏi đất nước phải đưa phương pháp giáo dục mới. Chẳng hạn như đợt dịch Covid-19 vừa qua cho thấy, cả thầy cô và học sinh phải thực hiện kỹ năng học trực tuyến.
Để hóa giải nút thắt về nguồn nhân lực, PGS-TS. Trần Trọng Nguyên - Giám đốc Học viện Chính sách & Phát triển cho rằng, cần có nhiều hơn khóa bồi dưỡng, tập huấn, hội thảo để lan tỏa thông tin, khái niệm, kiến thức về kinh tế số đến tất cả đối tượng. Khi có những hiểu biết nhất định thì sẽ thay đổi về tư duy và có sự phát triển kinh tế số tốt hơn.
Ngoài bài toán về nguồn nhân lực, các chuyên gia cũng khuyến nghị, Việt Nam cần tạo ra một môi trường cởi mở, gỡ bỏ trở ngại về pháp lý để có thể thúc đẩy kinh tế số phát triển. Đồng thời, cần có chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, năng động, gỡ bỏ các trở ngại khi tham gia thị trường của doanh nghiệp.