Phòng vệ thương mại là yếu tố sống còn với EVFTA
Để phòng vệ thương mại không trở thành thách thức trong EVFTA | |
Xây dựng Hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại | |
Vững vàng trong phòng vệ thương mại |
EVFTA đề cập đến những khía cạnh nào của phòng vệ thương mại, thưa ông?
Ông Lê Triệu Dũng |
Chương về các biện pháp PVTM tại EVFTA bao gồm các điều khoản liên quan đến việc sử dụng các công cụ PVTM truyền thống trong WTO. Về cơ bản, nội dung PVTM dựa trên các quy định của WTO, đồng thời bổ sung các nguyên tắc mang tính tiến bộ, phù hợp với hệ thống pháp luật về PVTM của ta, giúp cho nền kinh tế, các ngành sản xuất trong nước có công cụ “phòng vệ” hợp pháp, tiến bộ, đảm bảo hiệu quả của việc tham gia hiệp định. Các điểm mới về PVTM trong EVFTA là:
Thứ nhất, bổ sung các quy định giới hạn việc sử dụng các công cụ này để tránh lạm dụng và đảm bảo công bằng, minh bạch tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi hơn cho DN xuất khẩu.
Thứ hai, EVFTA quy định nguyên tắc áp dụng mức thuế thấp hơn, tức là thuế chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp chỉ ở mức đủ để loại bỏ thiệt hại (trong khi WTO không bắt buộc sử dụng quy tắc này). Một điểm đáng lưu ý là theo cam kết EVFTA, hai bên sẽ không áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp nếu việc này không phù hợp với lợi ích chung. Tức là bên cạnh việc xem xét tình hình của ngành sản xuất trong nước thì nước điều tra cũng cần xem xét tình hình, quan điểm của nhà nhập khẩu, hiệp hội ngành hàng, tổ chức đại diện người tiêu dùng và các DN hạ nguồn.
Vậy khi EVFTA có hiệu lực, PVTM của Việt Nam sẽ gặp phải những khó khăn gì?
Khi EVFTA có hiệu lực, thương mại hàng hóa giữa hai nước sẽ gia tăng do đại đa số các dòng thuế nhập khẩu sẽ được đưa về mức 0%. Từ đó, có thể dự đoán rằng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU sẽ tăng nhanh, dẫn tới khả năng tăng số lượng vụ việc PVTM giữa hai bên (để bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu). Bên cạnh đó, việc gia tăng số lượng các vụ việc PVTM có thể tạo ra một số khó khăn nhất định cho cơ quan điều tra PVTM của Việt Nam do bị hạn chế về nguồn lực.
Ngoài ra, do các lợi ích mà EVFTA đem lại là rất lớn nên không loại trừ nguy cơ một số DN tìm cách gian lận xuất xứ hoặc lẩn tránh biện pháp PVTM mà EU đang áp với nước khác để hưởng lợi bất chính. Trong bối cảnh đó, các hoạt động PVTM cần tập trung cảnh báo, ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp này.
Trong bối cảnh đó, Bộ Công thương đã triển khai những giải pháp gì để tăng cường hỗ trợ DN xuất khẩu ứng phó với các vụ việc PVTM của nước ngoài?
Tính đến hết tháng 3/2020, đã có gần 160 vụ việc PVTM do 19 quốc gia và vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Trong số đó, các nước khởi xướng điều tra nhiều nhất là Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, EU...
Trước tình hình này, Bộ Công thương đã chủ động hỗ trợ DN thông qua nhiều hoạt động như: Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp PVTM áp dụng lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, kể cả các vụ điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM. Hàng tuần có bản tin cảnh báo sớm để đăng tải công khai, đồng thời gửi các hiệp hội DN để phổ biến cho các DN.
Bộ cũng trình Chính phủ ban hành Đề án Xây dựng và vận hành hiệu quả Hệ thống cảnh báo sớm về PVTM nhằm hỗ trợ cộng đồng DN Việt Nam; Đẩy mạnh phổ biến, hướng dẫn, tư vấn DN cách thức ứng phó với các vụ kiện do nước ngoài khởi xướng. Đồng thời chủ động làm việc, phối hợp, kể cả đấu tranh với các cơ quan điều tra nước ngoài ngay từ giai đoạn điều tra ban đầu để bảo vệ lợi ích chính đáng của các DN Việt Nam, giảm thiểu tác động bất lợi của biện pháp;
Nhờ đó, Việt Nam đã thu được một số kết quả tích cực trong các vụ việc trên, cụ thể: Chúng ta đã kháng kiện thành công (không áp dụng biện pháp/không gia hạn áp dụng biện pháp) đối với 57/137 vụ việc đã kết thúc điều tra, chiếm tỷ lệ khoảng 42%; đảm bảo nhiều mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng như cá basa, tôm… tiếp tục được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU… với thuế suất bằng 0% hoặc ở mức rất thấp. Ngoài ra chúng ta còn khiếu kiện 5 vụ ra Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO, trong đó 3 vụ đã kết thúc với kết quả tích cực.
Hiện nay, Bộ Công thương đang chủ trì, phối hợp với Bộ NN&PTNT, VASEP và các DN xử lý 2 vụ việc giải quyết tranh chấp tại WTO liên quan đến: thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với cá tra và Chương trình Giám sát cá da trơn của Hoa Kỳ.
Ông có khuyến cáo gì để giúp DN chủ động thực hiện tốt PVTM?
Để chủ động ứng phó có hiệu quả với các biện pháp PVTM của nước ngoài, các DN xuất khẩu cần tìm hiểu quy định pháp luật, thực tiễn điều tra PVTM của các nước xuất khẩu. Bộ Công thương (Cục PVTM) sẵn sàng hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước tìm hiểu các nội dung này.
Cùng với đó là đa dạng hóa thị trường, thường xuyên tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, đa dạng hóa sản phẩm, tránh tăng trưởng xuất khẩu quá nóng vào một thị trường, đặc biệt là các thị trường thường xuyên sử dụng công cụ PVTM và đã từng kiện hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. DN cần chuyển dần từ chiến lược cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng và thương hiệu. Đồng thời có chiến lược rà soát giá bán một cách phù hợp để tránh bị coi là bán phá giá và phối hợp chặt chẽ với các bạn hàng tại nước sở tại để cập nhật thông tin.
Trong các vụ việc điều tra chống trợ cấp, DN cần tích cực phối hợp cung cấp thông tin để Bộ Công thương tổng hợp trả lời bản câu hỏi dành cho Chính phủ. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu các khuyến cáo cảnh báo sớm các biện pháp PVTM từ cơ quan PVTM để có các kế hoạch cụ thể cho DN.
Ngoài ra, các DN cũng cần phối hợp chặt chẽ Bộ Công thương, Hiệp hội, các DN trong ngành trong quá trình ứng phó vụ việc.
Xin cảm ơn ông!