Chỉ số kinh tế:
Ngày 15/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.144 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ I: Tiền đời vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Triều Lê sơ gồm 10 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập và Lê Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn phát triển thịnh trị nhất...
aa
Tiền Triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ I

Bối cảnh lịch sử

Lê Lợi, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa. Năm 1418, ông đã chiêu tập nghĩa quân, khởi nghĩa ở Lam Sơn. Sau 10 năm, cuối năm 1427, Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi, khôi phục nền độc lập của dân tộc, được các sử gia coi là thời kỳ trung hưng lần thứ hai của dân tộc.

Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều Lê sơ, đặt lại quốc hiệu là Đại Việt. Triều Lê kéo dài 361 năm (1428 - 1788), gồm 2 thời kỳ: Lê sơ (1428 - 1527) và Lê Trung Hưng (1533 - 1788).

Triều Lê sơ gồm 10 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập và Lê Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn phát triển thịnh trị nhất.

Về tình hình tài chính tiền tệ, sau những năm khủng hoảng tiền tệ dưới triều Hồ (tiền đồng khan hiếm, tiền giấy không được dân ưa dùng) và sau nhiều năm chính quyền đô hộ nhà Minh không đúc tiền, nhu cầu đồng tiền trong lưu thông hàng hóa trở nên cấp thiết. Vì vậy, sau một năm lên ngôi, ngày 5 tháng 7 năm 1429, vua Lê Thái Tổ đã truyền ngay cho các đại thần văn võ trong ngoài họp bàn về phép dùng tiền.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Kỷ Dậu, [Thuận Thiên] năm thứ 2 [1429]… Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 5, ra lệnh cho các đại thần và các quan văn võ trong ngoài họp bàn về quy chế đồng tiền. (Quy chế đồng tiền, nguyên văn là “tiền pháp”).

Tờ chiếu viết: “Tiền là mạch máu của sinh dân, không thể không có. Nước ta vốn có mỏ đồng, nhưng tiền đồng cũ đã bị nhà Hồ huỷ bỏ, trăm phần chỉ còn được một. Đến nay, việc quan, việc nước thường hay bị thiếu. Muốn cho tiền được lưu thông sử dụng, để thuận lòng dân, há chẳng khó sao?”

Vua Lê Thái Tông còn ra lệnh nghiêm cấm việc loại bỏ tiền đồng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Giáp Dần, Thiệu Bình năm thứ 1 [1434]… Ra lệnh chỉ cho kinh thành và các phủ, lộ, huyện, châu, xã, sách, thôn, trang rằng: Từ nay về sau, tiền đồng sứt mẻ nhưng còn xâu dây được thì phải lưu thông tiêu dùng, không được chê bỏ, nếu đã mẻ gãy không xâu dây được nữa thì thôi không tiêu. Người nào trái lệnh, từ chối không nhận, hay kén chọn tiền lành thì phải tội như nhau”. Việc đúc tiền giả sẽ bị nghiêm trị và cấm không được tiêu tiền giả.

Cùng với những việc trên, vua Lê tiếp tục thu hồi tiền giấy của triều Hồ còn lưu lạc trong dân gian nhằm thống nhất tiền tệ trên cả nước. Để chấm dứt tình trạng hỗn loạn trong lưu thông tiền tệ từ cuối triều Trần, nhà Lê đã ban định “Tệ chế luật lệ, dĩ thuận dân ý” (luật lệ về tiền tệ, thể theo ý dân).

Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nền kinh tế hàng hóa của Đại Việt phát triển nhanh chóng, kim ngạch buôn bán nội - ngoại thương đều tăng. Vua Lê Thánh Tông còn quy định nộp tô thuế bằng hiện vật và tiền, ví như thuế ruộng dâu dùng tơ và tiền, làm cho kinh tế tiền tệ từng bước thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà vua nghiêm cấm việc loại bỏ tiền đồng và rất coi trọng chất lượng của tiền tệ. Do vậy, triều đình, một mặt nắm giữ quyền đúc và phát hành tiền, mặt khác, mỗi năm đều đúc bổ sung cho lưu thông một lượng tiền nhất định. Điều này vừa giải quyết được nạn đúc tiền giả, vừa đảm bảo tính thống nhất về quy cách và chất lượng của đồng tiền.

Trải qua 10 đời vua thời Lê sơ đều cho đúc tiền. Tiền đẹp và hơn hẳn mọi mặt so với tiền đúc của các thời trước đó. Những đồng tiền thời kỳ này đạt đến mức tinh xảo, tiền đúc dầy, đẹp và khá quy chuẩn, biên tiền rõ ràng, chất liệu đồng tốt. Thư pháp thể hiện trên tiền Lê sơ gồm có hai giai đoạn, hoàn toàn khác biệt:

- Giai đoạn đầu, từ đầu niên hiệu Thuận Thiên đến năm Quang Thuận thứ 9 (1468), thư pháp vẫn được thể hiện dạng Chân thư, như các đồng Thuận Thiên nguyên bảo, Thiệu Bình thông bảo, Đại Bảo thông bảo, Đại Hoà thông bảo, Diên Ninh thông bảo, Thiên Hưng thông bảo.

- Giai đoạn thứ 2, năm Quang Thuận thứ 9 (1468) đến hết triều Lê sơ (1527): thư pháp trên tiền đổi sang kiểu chữ Hoa áp (chữ Khải của người Nam). “Đặc điểm chính của kiểu chữ này là nét ngang bằng, thẳng, giấu đầu che đuôi, các nét cuối thường có xu hướng hất lên trên (càng về giai đoạn sau, xu hướng này càng khoa trương). Nét chấm đều có hiện tượng lộ phong, xuất bút hoặc liên ti với một nét khác còn lại nếu có sự kết hợp, hoặc trong trường hợp ba chấm thuỷ thì các nét đều được liên kết với nhau. Lộ phong được dùng chủ yếu trong các nét móc câu, hoặc cuối các nét”.

Tiền triều Lê sơ đã thống nhất một loại tiền thông bảo từ đầu triều cho đến khi kết thúc (ngoại trừ tiền Thuận Thiên nguyên bảo của vua Lê Thái Tổ). Việc tiền triều Lê sơ được đúc ngày một nhiều đã thực hiện được vai trò chủ đạo, thống nhất tiền tệ trên cả nước và dần lấn át các loại tiền của các nước đồng văn lưu hành trên thị trường bấy giờ.

Tiền các đời vua triều Lê sơ

Tiền đời vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433)

Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi vua tại điện Kính Thiên, ở Đông Đô, đặt lại quốc hiệu là Đại Việt, đặt niên hiệu Thuận Thiên (1428 -1433). Đây là sự mở đầu một thời kỳ độc lập lâu dài nhất trong lịch sử nước ta. Một trong những chính sách nhằm ổn định tình hình đất nước sau chiến tranh được vua Lê Thái Tổ ban hành, đó là cho lập xưởng đúc tiền ở kinh đô và đúc tiền đồng Thuận Thiên nguyên bảo. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mậu Thân, Thuận Thiên năm 1 [1428]… Tháng 12…Đúc tiền Thuận Thiên nguyên bảo, cứ 50 đồng là 1 tiền” .

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thuận Thiên nguyên bảo”- 順天元寳 theo kiểu Chân thư. Khổ chữ nhỏ, rõ ràng. Nét chữ trên tiền có nhiều loại khác nhau như nét mảnh hoặc nét đậm, đặc biệt chữ “Nguyên”- 元 chân cao. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Tiền khá dày. Kích thước tiền có sự khác nhau, do tiền được đúc nhiều đợt với nhiều khuôn mẫu. Đường kính 23,5-25,9mm, dày 1,5-1,9mm, nặng 3,4-5,4gr.

Tiền Triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ I
Ảnh 1. Tiền Thuận Thiên nguyên bảo 順天元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đường kính 23,5 - 25,9mm

Mặc dù chỉ ở ngôi có 6 năm, nhưng việc cho đúc tiền đồng Thuận Thiên nguyên bảo 順 天元寳 của vua Lê Thái Tổ đã góp phần ổn định xã hội và có ý nghĩa đặc biệt, đặt nền móng cho các đời vua sau tiếp tục phát triển tiền tệ của nước nhà.

Đón đọc Kỳ II: Tiền đời vua Lê Thái Tông (1434 - 1442)


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.