Chỉ số kinh tế:
Ngày 16/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.141 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ IX: Tiền đời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Vua Lê Tương Dực cuối đời lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, làm cho đời sống nhân dân lầm than. Tháng 4 năm Bính Tý (1516), quan đại thần Trịnh Duy Sản cùng một số quần thần vào cung giết vua Lê Tương Dực, đưa Lê Ỷ lên ngôi (tức vua Lê Chiêu Tông)...
aa
Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ I: Tiền đời vua Lê Thái Tổ (1428 - 1433) Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ II: Tiền đời vua Lê Thái Tông (1434 - 1442) Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ III: Tiền đời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459) Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ IV: Tiền đời vua Lê Nghi Dân (1459 - 1460) Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ V: Tiền đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ VI: Tiền đời vua Lê Hiến Tông (1498 - 1504) Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ VII: Tiền đời vua Lê Uy Mục (1505 - 1509) Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ VIII: Tiền đời vua Lê Tương Dực (1510 - 1516)

Tiền đời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522)

Vua Lê Tương Dực cuối đời lao vào con đường ăn chơi trụy lạc, làm cho đời sống nhân dân lầm than. Tháng 4 năm Bính Tý (1516), quan đại thần Trịnh Duy Sản cùng một số quần thần vào cung giết vua Lê Tương Dực, đưa Lê Ỷ lên ngôi (tức vua Lê Chiêu Tông), đặt niên hiệu là Quang Thiệu (1516 - 1522) và đúc tiền Quang Thiệu thông bảo.

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Quang Thiệu thông bảo”- 光紹通寳 theo kiểu chữ Hoa áp, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ rõ ràng, nổi cao và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều nổi cao. Đường kính 25,8mm, dày 1,7mm, nặng 4,2gr.

Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ IX: Tiền đời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522)
Ảnh 1.6.15.Tiền Quang Thiệu thông bảo 光紹通寳, kiểu chữ Hoa áp, lưng tiền trơn, đường kính 25,8mm

Như vậy, tiền thời Lê sơ có tất cả 12 tên gọi: Thuận Thiên nguyên bảo, Thiệu Bình thông bảo, Đại Bảo thông bảo, Đại Hoà thông bảo, Diên Ninh thông bảo, Thiên Hưng thông bảo, Quang Thuận thông bảo, Hồng Đức thông bảo, Cảnh Thống thông bảo, Đoan Khánh thông bảo, Hồng Thuận thông bảo và Quang Thiệu thông bảo.

Các đồng tiền dưới triều Lê sơ dày dặn và đạt trình độ mỹ thuật cao. Đến cuối thời kỳ Lê sơ chữ viết có thay đổi rõ rệt và thống nhất kéo dài đến đầu nhà Mạc, đây là một dạng chữ cải cách được kết hợp giữa hành thư và khải thư, các chữ viết trên tiền để đúc là các quan có phẩm hàm thực hiện. Chữ theo kiểu chân thư, đạt vẻ tự nhiên, rõ ràng, đẹp mắt. Chữ viết trên tiền triều Lê sơ có một số đặc điểm như sau:

- Thục loan câu: Sổ thẳng, nét móc cao, rất giống nhau, như trong chữ Nguyên trên tiền Thuận Thiên nguyên bảo hay chữ Quang trên tiền Quang Thuận thông bảo hoặc chữ Thống trên tiền Cảnh Thống thông bảo.

- Nét Thiêu điểm, trên bộ thuỷ ở đồng Hồng Đức thông bảo, Hồng Thuận thông bảo, nét đá từ dưới kéo lên, cao ngang với nét chấm trên.

- Nét đới câu điểm, tức nét chấm dưới của các chữ Hồng, chữ Bảo, chữ Thuận, chữ Cảnh, đều đá vào trong, không hất ra ngoài.

- Nét tả nại ở chữ Thiên, chữ Khánh, chữ Diên, chữ Đại được kéo dài sang phải, tựa như cánh chim.

Tiền thời Lê sơ còn tìm thấy loại tiền được gọi là chữ kép: Thuận Thiên nguyên bảo, Hồng Đức thông bảo, Diên Ninh thông bảo, Quang Thuận thông bảo, Hồng Thuận thông bảo, Đại Hoà thông bảo. Những đồng tiền này có 4 chữ chồng dịch lên nhau.

Tiền triều Lê sơ (1428 - 1527) - Kỳ IX: Tiền đời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522)
Các đồng tiền chữ kép; 1.Thuận Thiên nguyên bảo; 2. Hồng Đức thông bảo; 3. Diên Ninh thông bảo; 4. Quang Thuận thông bảo, 5; Hồng Thuận thông bảo, 6; Đại Hoà thông bảo

Nhìn chung, vua Lê Thái Tổ - vị vua đầu tiên thời Lê sơ là người hết sức chăm lo đến sự phát triển tiền tệ, coi tiền tệ là huyết mạch của dân và các đời vua Lê sau đó cũng quan tâm đến việc đúc tiền. Vì thế tiền được đúc rất đẹp, có thể nói là đẹp nhất trong các loại tiền tệ trong lịch sử phong kiến nước ta.


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.