Đa dạng nguồn vốn trợ lực doanh nghiệp
Hỗ trợ nền kinh tế bằng hành động | |
Quyết liệt và đồng bộ các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp | |
DN được hỗ trợ vào mùa kinh doanh sớm |
Muốn đi xa phải tính chuyện bài bản
Hoạt động gần 40 năm trong ngành chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, CTCP XNK thuỷ sản Bến Tre (ABT) hiện đã có chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường. Lên sàn chứng khoán vào năm 2006, DN này duy trì mức lợi nhuận tăng trưởng vững chắc và chia cổ tức khá cao hàng năm. Trong năm vừa qua, trước bối cảnh các DN cùng ngành gặp nhiều khó khăn, ABT vẫn chi trả cổ tức bằng tiền mặt lên tới 25%.
Ông Nguyễn Văn Khải, thành viên HĐQT ABT chia sẻ: “Nếu chỉ biết trông vào nguồn vốn vay NH thì chẳng DN nào có thể làm ăn bền vững, lâu dài”. Cho nên, thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn duy nhất của DN trong thời điểm hiện tại. Bởi với các DN sản xuất như ABT, Ban lãnh đạo quan niệm NH chỉ là một kênh bổ sung nguồn vốn lưu động ngắn hạn để giải quyết nhu cầu thu mua nguyên liệu đầu vào, đảm bảo tính thời vụ… Còn để đầu tư nhà xưởng, máy móc, thiết bị, mở rộng sản xuất… thì DN cần tìm đến các kênh cho vay dài hạn hơn.
Kế hoạch huy động vốn bài bản là yếu tố giúp DN phát triển bền vững |
Chiến lược huy động vốn bài bản như trên đã giúp các DN như ABT phát triển bền vững, dù xuất phát điểm ở quy mô nhỏ bé. Tuy nhiên, rất ít DN Việt Nam, đặc biệt là DNNVV, có thể lên kế hoạch huy động nguồn tài chính bài bản để đầu tư dài hạn như thế. Hiện tại, đa số các DNNVV vẫn đang dựa nhiều vào nguồn vốn từ NH để đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, ngay cả khi thiết kế các giải pháp tài chính cho DNNVV, quan điểm chung vẫn là tiếp tục trông vào kênh tín dụng NH. Điều này thể hiện ngay ở trong Luật Hỗ trợ DNNVV đang được dự thảo và lấy ý kiến đóng góp. Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) dẫn chứng, Điều 10 trong Luật Hỗ trợ DNNVV quy định về hỗ trợ tiếp cận tín dụng có nội dung chủ yếu là cấp tín dụng thông qua các NHTM.
Theo VCCI, tiếp cận tín dụng chỉ là một trong các hình thức huy động vốn. DNNVV có thể tiếp cận nguồn vốn thông qua các quỹ đầu tư, thuê mua tài chính, qua thị trường chứng khoán… Tổng hợp các góp ý của chuyên gia và cộng đồng DN, VCCI kiến nghị cần thay đổi tư duy tiếp cận nguồn tài chính của DN và các cơ quan quản lý.
Đồng quan điểm, TS. Trương Văn Phước, Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát tài chính quốc gia cho rằng, DNNVV sẽ có khả năng tiếp cận vốn tốt hơn nếu điều chỉnh một số chính sách và chính bản thân DN phải sẵn sàng thay đổi để hợp tác. Ví dụ, thay vì để NH hình thành các quỹ bảo lãnh, thì nên quy định NH trích một tỷ trọng trong tổng dư nợ của mình để cho DNNVV vay theo dạng tín chấp.
Tín chấp ở đây là cho DN vay vốn, sau đó NH kiểm soát dòng vốn chu chuyển qua sản xuất kinh doanh, xem như một tài khoản đảm bảo. Đây là hình thức thế chấp dòng tiền đã được một số NH áp dụng. Theo đó, NH cho DN vay không tài sản bảo đảm nhưng bù lại dòng tiền của DN phải thanh toán qua NH cho vay. Tuy nhiên, vấn đề là hiện nay không mấy DN chấp nhận điều kiện này vì muốn “né” mọi thông tin liên quan đến mua bán, không muốn minh bạch thông tin với NH.
Để NH bớt nặng gánh
Trong khi nhiều DNNVV còn chưa sẵn sàng hợp tác với NH, thì quy định về cấp tín dụng trong Luật Hỗ trợ DNNVV hiện nay lại đang khiến NH “nặng gánh”. Theo đó, Khoản 1, Điều 10 Dự thảo đang thiết kế theo hướng Nhà nước sẽ cấp vốn cho các NHTM để hỗ trợ cho vay các DNNVV. Tuy nhiên, Dự thảo chưa chỉ rõ được Nhà nước sẽ cấp vốn trong trường hợp nào, bởi các tiêu chí để NHTM nhận khoản vốn này còn chung chung.
Về vấn đề này, các chuyên gia cho rằng, giải pháp phải nhằm khuyến khích tăng tỷ lệ dư nợ cho vay dành cho DNNVV cần được quy định rõ hơn. Chẳng hạn, cần quy định rõ “Nhà nước ưu tiên cấp vốn tín dụng (hoặc cộng thêm điểm trong đấu thầu trái phiếu Chính phủ) cho các NHTM có dư nợ tín dụng cho DNNVV chiếm trên 30%”. Quan điểm chung là nên có chính sách khuyến khích NH cho vay với đối tượng DNNVV, thay vì quy định phải trích một tỷ lệ bắt buộc trong tổng dư nợ.
VCCI cũng khuyến cáo, ngoài kênh tín dụng NH, cần bổ sung giải pháp đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ DNNVV thông qua phát triển các quỹ đầu tư tư nhân, bao gồm quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thiên thần, quỹ thách thức…
Một khía cạnh khác, hiện trong Khoản 4, Điều 10 Dự thảo Luật Hỗ trợ DNNVV đã có quy định: “Ưu tiên tiếp cận các dịch vụ tín dụng vi mô”. Tuy nhiên, quy định này vẫn rất mù mờ và nhìn chung khó để DN tiếp cận. Bởi định nghĩa “tín dụng vi mô” ở Việt Nam rất hẹp.
Nghị định 28/2005/NĐ-CP năm 2005 và Nghị định 165/2007/NĐ-CP năm 2007 quy định: “Tín dụng quy mô nhỏ là khoản cho vay có giá trị nhỏ, có hoặc không có tài sản bảo đảm đối với các hộ gia đình cá nhân có thu nhập thấp để sử dụng vào các hoạt động tạo thu nhập và cải thiện điều kiện sống”.
Với định nghĩa này, hoạt động của các tổ chức tài chính tín dụng vi mô không mở rộng được tới đối tượng khách hàng là các DNNVV, có chăng chỉ đủ cho DN siêu nhỏ, hộ kinh doanh gia đình vay. Và các khoản tín dụng vi mô cũng khó có thể phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh.
Bên cạnh đó, quy định về bảo lãnh tín dụng cho DNNVV cũng cần được quy định rõ hơn. Bởi theo TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia đánh giá, về quỹ bảo lãnh tín dụng dành cho DNNVV hiện nay đang tồn tại nhiều vướng mắc. Thứ nhất, năng lực của quỹ có vấn đề. Thứ hai, phối hợp giữa quỹ này với NH có vấn đề, khi quỹ đã thẩm định một lần, NH lại phải làm thêm lần nữa. Chưa kể, quy định “không được lỗ” khiến không có quỹ nào dám đứng ra bảo lãnh.
“Phải chấp nhận tỷ lệ lỗ nhất định thì các TCTD mới dám đứng ra cho vay đối với DNNVV”, ông Lực nhấn mạnh.