Để không bị bỏ lại trong cuộc CMCN 4.0
Mấu chốt là chọn ngành đầu tư trọng điểm | |
Gần 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa sẵn sàng cho CMCN 4.0 |
“Khoa học công nghệ luôn được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu cho tăng trưởng kinh tế. Do đó, cần sớm tiếp cận và có chính sách thúc đẩy Việt Nam tham gia cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN4.0)”, TS. Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhấn mạnh như vậy tại Diễn đàn “CMCN 4.0: Kinh nghiệm quốc tế và chính sách của Việt Nam” do CIEM tổ chức sáng 27/11 tại Hà Nội nhằm lấy ý kiến đóng góp cho Dự thảo Chiến lược quốc gia về CMCN 4.0 cũng như chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng chiến lược CMCN 4.0.
Có thể thấy CMCN 4.0 đang tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trên quy mô toàn cầu, với sự chuyển dịch mang tính nền tảng về nguồn vốn, lao động, phương thức sản xuất và mô hình tăng trưởng. Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tăng trưởng chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới, sáng tạo. Đây chính là những động lực không giới hạn thay cho tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng vốn, lao động phổ thông - là những yếu tố đầu vào luôn có giới hạn.
Với tất cả những lý do đó, CMCN 4.0 là cơ hội to lớn để Việt Nam đi tắt đón đầu, nhanh chóng tiệm cận thị trường thế giới dựa trên nền tảng số tăng trưởng nhanh, giá trị gia tăng cao. Hơn cả, đó là cơ hội đầu tư và phát triển các ngành mới, chiếm vị trí quan trọng trong chuỗi cung ứng. Sự tổng hoà những cơ hội này sẽ giúp ứng dụng, bắt kịp và vươn lên đi đầu cho các nước đang phát triển như Việt Nam.
Theo báo cáo của CIEM, so với kịch bản chỉ có cải cách kinh tế (không thực hiện CMCN 4.0) thì CMCN 4.0 có thể thúc đẩy GDP Việt Nam tăng thêm 28,5 tỷ - 62,1 tỷ USD, tương đương mức tăng GDP từ 7 - 16%/năm đến năm 2030, tùy theo từng kịch bản (cao, trung bình, thấp). GDP bình quân đầu người sẽ tăng thêm 315-640 USD người vào năm 2030 nhờ tăng năng suất và tăng việc làm.
Tuy nhiên, để bắt kịp và tiến vào cuộc cách mạng này không hề đơn giản mà đang đặt ra nhiều thách thức. Theo báo cáo năm 2018 về mức độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) mới công bố, trong tổng số 100 quốc gia được đánh giá, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có mức độ sẵn sàng cho CMCN 4.0 ở mức thấp.
Cụ thể, Việt Nam chỉ xếp thứ 70/100 về nguồn nhân lực, trong đó các chỉ số về lao động có chuyên môn cao, chất lượng đại học lần lượt xếp thứ 81/100 và 75/100. Bên cạnh đó, Việt Nam chỉ xếp hạng 90/100 về công nghệ và đổi mới sáng tạo thua xa nhiều quốc gia trong khu vực; trong đó, hạng 92/100 về công nghệ nền tảng (Technology Platform), hạng 77/100 về năng lực sáng tạo.
Về tiềm năng sản xuất, đánh giá của WEF cho thấy mức độ sẵn sàng ứng dụng CMCN 4.0 của Việt Nam khá thấp, chỉ thuộc nhóm nước sơ khởi (Nascent). Cấu trúc sản xuất đạt 4,96/10 điểm (xếp hạng 48/100), động lực sản xuất đạt 4,93/10 điểm (xếp hạng 53/100)…
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Đặng Quang Vinh - Phó Trưởng ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh (CIEM) cho biết, mặc dù môi trường đã có nhiều cải thiện trong những năm gần đây, song môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn còn rào cản; thể chế kinh tế thị trường của Việt Nam nhìn chung chưa phù hợp với đổi mới sáng tạo; pháp luật về kinh doanh cũng chậm thay đổi trước các xu hướng công nghệ và thị trường.
Trong khi đó, đại đa số doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp và chưa quan tâm đến ứng dụng công nghệ mới. Vốn đầu tư cho công nghệ tuy có tăng song cũng chưa đáp ứng được nhu cầu; khối lượng vốn đầu tư mạo hiểm theo quy mô của nền kinh tế ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước như Malaysia và Indonesia...
Từ thực tế đó, ông Vinh cho rằng, cần rà soát, sửa đổi thể chế quản lý kinh doanh, đơn giản hóa thủ tục hành chính và điều kiện kinh doanh trên nền tảng số, tạo không gian thể chế cho các thử nghiệm công nghệ; đồng thời, rà soát, sửa đổi, bổ sung thể chế cho các ngành công nghiệp mới xuất hiện; nâng cao chất lượng pháp luật và thi hành pháp luật về bảo vệ sở hữu trí tuệ để khuyến khích đổi mới sáng tạo…
Đồng tình với những đánh giá này, TS. Lê Đăng Doanh cho rằng, điều quan trọng nhất là phải cải cách, tạo môi trường thuận lợi hơn cho doanh nghiệp kinh doanh, sáng tạo, giảm chi phí không chính thức, giám sát sự can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp.
Từ kinh nghiệm của một số quốc gia, CIEM đề xuất 5 nhóm giải pháp để có thể bắt kịp cuộc CMCN 4.0. Nhóm giải pháp thứ nhất là đẩy mạnh cải cách thể chế để tạo điều kiện cho kinh tế số phát triển và công nghệ 4.0 được ứng dụng trong thực tiễn, khuyến khích đổi mới sáng tạo trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong lĩnh vực quản lý nhà nước.
Nhóm giải pháp thứ hai, phát triển hạ tầng số, thúc đẩy phát triển chính phủ điện tử trên nền tảng số hóa và trực tuyến hóa các dịch vụ công, hướng đến mục tiêu năm 2020, tất cả các dịch vụ công đều được cung cấp trực tuyến cấp độ 4; bãi bỏ sử dụng hồ sơ giấy trong thực hiện các thủ tục hành chính công. Bên cạnh đó, Chính phủ phải xây dựng, sửa đổi các văn bản pháp luật trong rất nhiều lĩnh vực đang có xu hướng sử dụng công nghệ số mạnh mẽ như giao thông, y tế, môi trường, du lịch, thương mại điện tử... để tạo thuận lợi, cũng như xử lý những mâu thuẫn, bất cập nảy sinh trong hoạt động của các phương thức kinh doanh mới trong thời CMCN 4.0.
Nhóm giải pháp thứ ba là thúc đẩy phát triển doanh nghiệp công nghệ và các giải pháp phát triển kinh tế số, nhất là hệ sinh thái để phát triển thương mại điện tử, mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng số.
Nhóm giải pháp thứ tư là cải cách lĩnh vực giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực theo hướng thay đổi cách tiếp cận giáo dục, phát triển năng lực sáng tạo và kỹ năng khởi nghiệp của người học.
Nhóm giải pháp thứ năm là huy động nguồn lực tăng cường đầu tư cho R&D, coi đây là một yếu tố quyết định đến đổi mới hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Theo đó, cần đầu tư nghiên cứu, tiếp cận nhanh hơn nữa với xu hướng khoa học công nghệ trong các lĩnh vực như vật liệu mới, năng lượng mới, kỹ thuật số, CNTT, tự động hóa và AI, công nghệ sinh học...
Việt Nam cũng cần sớm có chiến lược, giải pháp cụ thể để phát triển các ngành tự động hóa tích hợp với các công nghệ cao như công nghệ thông tin, chuỗi cung ứng thông minh, sử dụng hệ thống quản lý sở hữu trí tuệ mới, tối ưu hóa mô hình kinh doanh.