Mô hình quyết định hiệu quả
Thúc giục hoá giải rủi ro trong PPP | |
Cần cẩn trọng với PPP |
Ảnh minh họa |
Theo số liệu thống kê từ khi Nghị định 15/2015/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ tháng 4 năm ngoái đến hết quý II/2016, riêng TP.HCM đã kêu gọi được 19 dự án đầu tư theo hình thức PPP, với tổng vốn đầu tư khoảng 34.846 tỷ đồng.
Theo ông Nguyễn Hồng Văn, Trưởng phòng PPP thuộc Sở KH&ĐT TP.HCM, mô hình PPP có tính chủ động, và thẩm quyền của các cơ quan hữu trách ở địa phương được tăng lên nhờ chủ trương phân cấp trách nhiệm triệt để cho địa phương. Theo những quy định hiện hành, chỉ có những dự án sử dụng phần vốn ngân sách Trung ương hoặc vốn ODA mới phải xin ý kiến của các bộ, ngành và Chính phủ khi xây dựng danh mục dự án PPP.
Ngoài ra, quy định cũng cho phép ủy quyền cho sở, ngành (chuyên môn) hoặc cấp huyện chịu trách nhiệm toàn bộ quy trình lựa chọn nhà đầu tư cũng như thực hiện ký kết và làm các hợp đồng dự án nhóm B và C ở những thành phố lớn như TP.HCM.
Thực tế, những dự án hạ tầng giao thông, môi trường, chỉnh trang đô thị, cải tạo chung cư, nhà ổ chuột, bệnh viện… ở các đô thị lớn như TP.HCM, Hà Nội… có nhu cầu bức thiết về vốn, và cần mô hình hợp tác để khơi thông nguồn lực tài chính trong xã hội.
Tuy nhiên nghiên cứu của TS. Huỳnh Thế Du, Giám đốc đào tạo của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright cho rằng: Mô hình PPP có mức độ thành công rất khiêm tốn ở các nước đã áp dụng vào việc phát triển hạ tầng giao thông.
Ví dụ: giai đoạn 2001-2011 các nước châu Á - Thái Bình Dương chỉ huy động được khoảng 10% trên tổng nhu cầu vốn đáp ứng cho phát triển hạ tầng giao thông. Đặc biệt trong nhiều trường hợp các dự án PPP lại trở thành các công trình chỉ định thầu với điều kiện ưu đãi cho nhà thầu. Hậu quả là vốn đầu tư bị đội lên và Nhà nước phải giải quyết những hậu quả này.
Mô hình PPP chỉ có thể thành công trong một phạm vi nào đó, nếu lập kế hoạch kỹ càng và ước tính chặt chẽ chi phí và nguồn thu của dự án sau khi hoàn thành. Chẳng hạn như một con đường hay cây cầu thực hiện theo mô hình PPP sẽ được người dân sử dụng và sẵn sàng chi trả phí cầu đường khi mức phí hợp lý với chất lượng.