Ngành ô tô Việt Nam đang hấp dẫn nhà đầu tư?
Nhập khẩu ô tô quý I/2019 gần bằng nửa năm 2018 | |
[Infographic] Thị trường ô tô tháng 3/2019: Doanh số bật tăng |
Ngành công nghiệp ô tô luôn giành được sự quan tâm đặc biệt từ Chính phủ |
Ngành ô tô luôn là ngành mũi nhọn đóng góp quan trọng vào kinh tế của các nước lớn trên thế giới, như: đóng góp 3,25% GDP của Mỹ; 5% GDP của Trung Quốc; 4% GDP của Đức và 12% GDP của Thái Lan. Tại Việt Nam, ngành ô tô cũng chiếm tới 3% GDP cả nước.
Chính vì lý do này mà ngành luôn giành được những sự quan tâm và đối xử đặc biệt từ phía Chính phủ. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) từ trước đến nay luôn có những ngoại lệ dành cho ô tô nhằm bảo vệ ngành công nghiệp này trước sức ép cạnh tranh từ các nước trên thế giới, ngoại trừ ATIGA và có thể là EVFTA sắp tới.
Vẫn còn dư địa phát triển
CTCK Ngân hàng Công Thương Việt Nam (CTS) cho biết, quy mô thị trường xe ô tô Việt Nam hiện quá nhỏ để khiến cho các hãng xe chi tiền đầu tư sản xuất linh kiện, phụ tùng. Theo Toyota Việt Nam, số lượng phụ tùng, linh kiện bán được hàng năm phải đạt khoảng 50.000 bộ thì mới khả thi để đầu tư. Có nghĩa là một mẫu xe phải sản xuất được 50.000 chiếc trong một năm, gấp đôi doanh số tiêu thụ của các mẫu xe bán chạy hiện tại.
Quy mô nhỏ trong khi những ưu đãi để thu hút đầu tư phụ trợ là chưa rõ ràng đã khiến cho việc sản xuất ở Việt Nam chỉ dừng lại ở khâu lắp ráp. Điều đó khiến giá thành xe sản xuất ở Việt Nam cao hơn 10 - 20% so với các nhà sản xuất lớn trong khu vực như Thái Lan, Indonesia…
Tính tới thời điểm hiện tại, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán tổng cộng 16 FTA với các nước và các khối, trong đó 11 hiệp định đã có hiệu lực. Một điều khá đặc biệt ở các hiệp định đã ký kết đó là 2 ngành công nghiệp như ô tô và thép luôn được đối xử hết sức đặc biệt và thường không nằm trong danh mục các dòng thuế được miễn giảm, chỉ ngoại trừ ATIGA và có thể là EV-FTA sắp tới.
Khi thuế nhập khẩu giảm mà các DN nội không đủ sức cạnh tranh với các DN ở các nước trong khu vực, Chính phủ đã ban hành Nghị định 116 nhằm hạn chế nhập khẩu bằng các biện pháp kỹ thuật. Nhưng điều này vấp phải sự phản đối từ các đối tác, việc hạn chế không được thành công như giai đoạn mới ban hành.
Dù vậy, đại diện CTS cho rằng Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục có những cách thức bảo hộ mà trước mắt có thể là việc giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thành phần sản xuất trong nước trên ô tô. Đây cũng là cách mà Malaysia sử dụng để bảo hộ 2 thương hiệu xe trong nước của họ.
Với việc nhập khẩu dễ dàng hơn và thuế tiêu thụ đặc biệt giảm có thể được áp dụng, CTS kỳ vọng rằng giá xe ô tô trong nước sẽ giảm xuống và phù hợp hơn với thu nhập của người dân, qua đó thúc đẩy tiêu thụ xe.
Nhìn về mối tương quan giữa tiêu thụ xe ô tô và GDP trên đầu người và số lượng ô tô trên 1.000 dân của các quốc gia, hiện tại Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của chu kỳ tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng tiêu thụ hợp lý đối với Việt Nam là khoảng 10,5%/năm nếu nhìn vào mối tương quan với GDP đầu người của các quốc gia trong khu vực. Khi GDP/người tăng 1% thì tiêu thụ xe/người tăng khoảng 1,5%. Tuy nhiên, mức tăng trưởng cũng có thể sẽ cao hơn và đạt khoảng 12 - 15%/năm trong vòng 10 năm tới nếu như giá xe giảm và những biện pháp kích thích như cấm xe máy trong nội đô trở thành hiện thực.
Sẽ có thay đổi lớn về môi trường pháp lý
Cũng theo CTS, ngành ô tô Việt Nam đứng trước sự thay đổi lớn về môi trường pháp lý tạo ra cơ hội lớn cũng như rủi ro cho các DN.
Được biết, Bộ Tài chính đang đề xuất với Thủ tướng về việc giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thành phần sản xuất trong nước trên xe ô tô của các nhà sản xuất. Động thái này của các cơ quan quản lý vì sẽ giải quyết được nhiều vấn đề trong ngành như: Giá xe giảm thúc đẩy được doanh số và nhờ đó đạt được tính kinh tế theo quy mô; Giải quyết được các bài toán về việc đàm phán thương mại; Tạo được lợi thế để giữ chân các nhà sản xuất trong nước và tạo được động cơ đầu tư tăng tỷ lệ nội địa hóa, không nhập khẩu ồ ạt.
Khi nhìn lại những nước có nền công nghiệp ô tô phát triển và tương đối phát triển, có thể dễ dàng nhận thấy được sự ủng hộ của người dân đối với những thương hiệu ô tô trong nước. Tại Malaysia, 2 thương hiệu nội địa của quốc gia này là Proton và Perodua chiếm tới 47% thị phần tiêu thụ xe. 2 thương hiệu của Malaysia cũng thường xuyên được Chính phủ dành cho những ưu ái và những chương trình hỗ trợ đặc biệt. Còn tại Hàn Quốc, 2 thương hiệu Hyundai và Kia cũng chiếm tới 66% thị phần tiêu thụ.
Chính vì vậy, hoàn toàn có cơ sở khi Vinfast truyền thông đánh mạnh vào lòng tự tôn dân tộc. Chính phủ Việt Nam cũng hoàn toàn có thể áp dụng những chính sách đặc biệt đối với thương hiệu ô tô trong nước như các nước vẫn thường làm.
CTS cũng nhận định, dư địa tăng trưởng ngành còn rất lớn khi tỷ lệ hộ gia đình sở hữu xe ô tô mới chỉ ở khoảng 2%. Phương tiện di chuyển của người Việt vẫn chủ yếu là xe máy. Trong bối cảnh những thay đổi về chính sách để thúc đẩy tăng trưởng ngành ô tô được Chính phủ chú trọng như hiện nay, khả năng tiếp cận của người dân đối với sản phẩm ô tô sẽ tăng lên đáng kể. Giá xe sẽ phù hợp hơn với thu nhập của đại đa số người dân, sự lựa chọn trong phân khúc giá thấp sẽ trở lên đa dạng hơn trước.
“Triển vọng tăng trưởng sẽ có thay đổi tùy thuộc vào môi trường, điều kiện pháp lý, kinh tế của từng giai đoạn. Tuy nhiên ngành ô tô Việt Nam sẽ còn tăng trưởng mạnh trong dài hạn trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng bền vững hơn trước”, CTS khẳng định.