WB: Viễn cảnh kinh tế trung hạn của Việt Nam vẫn tích cực
Tăng trưởng khó đạt được mục tiêu đề ra 6,7% | |
Chủ động điều hành CSTT góp phần kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng | |
Khi chính sách tiền tệ hỗ trợ tài khóa |
“Chính sách tiền tệ vẫn tiếp tục nhắm đến mục tiêu duy trì cân đối giữa hỗ trợ tăng trưởng và ổn định vĩ mô” - Báo cáo Điểm lại Tình hình Kinh tế Việt Nam do Ngân hàng Thế giới công bố ngày 19/7/2016, nhận định.
Báo cáo nhận xét, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã tăng chậm hơn trong nửa đầu năm 2016-GDP ước tính chỉ tăng 5,5% so với mức 6,3% cùng kỳ năm ngoái, nguyên nhân là do sản xuất công nghiệp đang có xu hướng tăng chậm lại còn nông nghiệp thì bị ảnh hưởng nặng nề bởi hạn hán và xâm nhập mặn. Và mức tăng trưởng GDP năm nay sẽ đạt khoảng 6% - thấp hơn 0,2% của mức dự báo đưa ra trước đây.
Nhưng ông Achim Fork - Quyền Giám đốc quốc gia WB tại Việt Nam và chuyên gia Sebastian Eckardt - chuyên gia kinh tế cao cấp của WB đều cho rằng, mức tăng trưởng như vậy là không có gì là quá xấu và tăng trưởng được như vậy đã là rất khả quan so với nhiều nền kinh tế khác và viễn cảnh kinh tế trung hạn của Việt Nam vẫn tích cực. “Mặc dù viễn cảnh tăng trưởng giảm tốc nhưng không có gì u ám. Khả năng chống chọi của Việt Nam tương đối tốt”, ông Sebastian Eckardt phát biểu.
Ảnh minh họa |
Dù vài tháng gần đây tỷ lệ lạm phát có tăng nhẹ và các chuyên gia trong nước cũng đã lưu ý lạm phát có thể tăng ở những tháng tới, nhưng theo WB “áp lực giá hàng tiêu dùng vẫn nằm trong tầm kiểm soát” và lạm phát sẽ quanh mức 4%. “Trong bối cảnh đó, chính sách tiền tệ vẫn tiếp tục nhắm đến mục tiêu duy trì cân đối giữa hỗ trợ tăng trưởng và ổn định vĩ mô”, báo cáo bình luận.
Không chỉ là khó khăn, thách thức và cũng là những nguyên nhân khiến tăng trưởng chậm lại trong nửa đầu năm vừa qua cũng như thời gian tới, những yếu tố khách quan và bất thường hơn từ thị trường toàn cầu (đặc biệt là sự kiện Brexit vừa qua, và hiện tượng hạn hán, xâm nhập mặn hay các thảm họa về môi trường như vụ việc Formosa … chính là những điểm yếu của nền kinh tế vĩ mô.
Trong báo cáo WB nhấn mạnh đến vấn đề tài khóa và nợ công. Các chuyên gia WB cho rằng, áp lực tài khoá vẫn đang gia tăng. Đến cuối năm 2015 tổng nợ công của Việt Nam (nợ của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh, nợ của chính quyền địa phương) ước khoảng 62,2% GDP, đang tiến gần đến mức trần 65% GDP mà Quốc hội đặt ra. Yếu tố chính dẫn đến tình trạng này là do tình trạng thâm hụt tài khoá lớn và dai dẳng và phần lớn được bù đắp từ nguồn vay nợ trong nước.
Theo WB, Chính phủ đã cam kết củng cố tình hình tài khoá, đảm bảo bền vững nợ công thì quyết tâm của Chính phủ về tăng cường kỷ cương ngân sách phải cân đối với các biện pháp cải cách tạo khoảng đệm tài khoá nhằm đảm bảo các khoản đầu tư hạ tầng quan trọng và chi dịch vụ công vẫn được thực hiện. “Cần nâng cao chất lượng các biện pháp điều chỉnh tài khóa, kể cả cân đối thu-chi và tăng cường tiết kiệm chi thay vì cắt giảm các khoản chi và đầu tư tùy tiện một cách chung chung” - ông Sebastian Eckardt khuyến nghị.
Nguồn: Ước tính của WB |
Để đạt mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 3% GDP vào năm 2020 như Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2016-2020 của Việt Nam đề ra thì tỷ lệ thu/GDP sẽ phải tăng 1% và đạt khoảng 24,7% GDP vào năm 2020, và giảm tốc độ tăng chi xuống dưới mức tăng GDP danh nghĩa, theo WB. Tuy nhiên giả định này sẽ phụ thuộc vào nhiều rủi ro trong đó gồm có sự chậm trễ thực hiện kế hoạch củng cố tài khoá, liên tục thâm hụt ngân sách cơ bản (trừ trả nợ) cũng như sự biến động của tỷ giá và tình hình phát triển kinh tế nói chung.
“Việc chậm trễ trong thực hiện củng cố tài khoá sẽ đe dọa mức bền vững nợ công, ổn định tài khóa và tăng trưởng trong tương lai” – báo cáo cảnh báo.
Các chuyên gia WB cũng nhận định tiến độ tái cơ cấu kinh tế vẫn diễn ra với tốc độ chậm, mà điều này sẽ làm giảm tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. “Về lâu dài, nếu Việt Nam tiếp tục thực hiện tái cơ cấu theo chiều sâu thì mới có thể đẩy nhanh được tăng trưởng kinh tế” – báo cáo khuyến nghị. Trong đó, các vấn đề ưu tiên gồm cải cách DNNN, hệ thống NH, quản lý đầu tư công và tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân.
Việc chậm tiến hành tái cơ cấu các lĩnh vực này cũng là một phần nguyên nhân khiến cho năng suất lao động thay vì đáng lẽ phải tăng lên thì vẫn đang có xu hướng giảm đi. Thêm vào đó, lương chắc chắn sẽ tăng và lợi thế nhân công giá rẻ trong các ngành sử dụng nhiều lao động sẽ dần dần bị lu mờ.
Chính vì vậy, việc tăng cường liên kết với chuỗi giá trị toàn cầu, đa dạng hóa sang các hoạt động có năng suất cao hơn và tạo nhiều giá trị gia tăng hơn là đòi hỏi cấp thiết để duy trì tăng trưởng và tạo việc làm. Chỉ có như vậy mới có thể tận dụng tốt các cơ hội mới trong quá trình hội nhập toàn cầu và khu vực.
Các chuyên gia WB cũng đánh giá cao chính sách tiền tệ của NHNN khi tiếp tục hướng tới duy trì cân đối giữa mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên trong ngắn hạn, với tín dụng tăng trưởng khá cao so với cùng kỳ năm ngoái thì WB cũng khuyến nghị về sự cần thiết phải theo dõi sát vấn đề tăng trưởng tín dụng trong những tháng tới dù trong thời gian vừa qua, NHNN đã ban hành quy định các giới hạn, tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các TCTD (Thông tư 06) nhằm hạn chế, ngăn ngừa tác động tiêu cực của tăng trưởng tín dụng nóng và nâng cao chất lượng tín dụng.
Rất chia sẻ với bối cảnh giải quyết nợ xấu hiện nay, ông Sebastian Eckardt có nhận xét: “các văn bản pháp lý còn yếu chưa tạo thuận lợi cho thị trường nợ xấu vận hành”.
Theo đánh giá của WB, Việt Nam có thể chịu tác động từ sự kiện Brexit vừa qua thông qua các kênh như tài chính, thương mại, du lịch và đầu tư nhưng những tác động này ở mức tương đối nhỏ. Tuy tác động trực tiếp được đánh giá ở mức thấp nhưng những rủi ro gia tăng của môi trường kinh tế toàn cầu như vậy vẫn đòi hỏi Việt Nam phải chú trọng củng cố ổn định các cân đối vĩ mô nhằm nâng cao sức đề kháng của kinh tế trước các biến động bất lợi từ bên ngoài. Tổng hòa chính sách vĩ mô thích hợp trong bối cảnh này vẫn là duy trì tỷ giá linh hoạt, dần tăng dự trữ ngoại hối và tiếp tục củng cố tài khóa nhằm ổn định nợ công và tạo dựng lại các khoảng đệm tài khóa |