Đường sắt tốc độ cao: Điểm nhấn cho phát triển kinh tế - xã hội trong thập kỷ tới
Rà soát, bổ sung cơ chế đặc thù cho Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam Thẩm định Báo cáo nghiên cứu tính khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao |
Thời điểm chín muồi
Tại tọa đàm "Đường sắt tốc độ cao - Thời cơ và thách thức" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 29/10/2024, Thứ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải Nguyễn Danh Huy cho biết, dự án đã được nghiên cứu trong nhiều năm để đảm bảo sự phù hợp và cấp thiết. Với dự báo nhu cầu vận tải và quy mô nền kinh tế đã đạt 430 tỷ USD, mức nợ công khoảng 37% (năm 2023), đây là thời điểm thích hợp, cần thiết để xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, là tiền đề, động lực để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2035 với tốc độ đạt 350 km/h, tuyến đường giúp kết nối nhanh chóng các khu đô thị lớn, khu công nghiệp và khu kinh tế dọc tuyến. Từ các nghiên cứu trên thế giới và trong nước, chi phí vận tải biển hiện nay là thấp nhất, nhưng đối với các cự ly dưới 1.000 km, đường sắt lại là lựa chọn tối ưu và có lợi thế lớn so với các phương thức vận tải khác như hàng không và đường bộ.
Dự kiến vào ngày 30/11/2024, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. |
Bày tỏ nhất trí rất cao về sự cần thiết triển khai dự án này, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh tới 3 điều: “Thứ nhất, rất phù hợp, đáp ứng các yêu cầu theo chủ trương của Đảng, của Trung ương; Thứ hai, đó là đòi hỏi của thực tiễn; Thứ ba, chúng ta mong muốn thông qua đây tạo động lực phát triển mới”. Do đó về mặt thời điểm, ông Hiếu nhấn mạnh, đây là thời điểm phù hợp để triển khai dự án, cả về điều kiện, năng lực... Đồng thời, nhất trí hoàn toàn với cách tiếp cận: Thiết kế với tốc độ 350 km/giờ, tải trục là 22,5 tấn; phương án khai thác là vận tải hành khách kết hợp quốc phòng, an ninh và cần thiết thì vận tải hàng hóa.
“Việc xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao vào thời điểm này đã có đầy đủ cơ sở để triển khai”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương khẳng định, đồng thời nhấn mạnh: “Đây là sự cần thiết để có bước đột phá về hạ tầng, tạo tác động tích cực và lan tỏa đến tăng trưởng kinh tế cũng như bảo đảm an sinh xã hội”.
Qua phân tích sơ bộ ở giai đoạn đánh giá tiền khả thi dự án hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá hiệu quả của dự án đối với phát triển kinh tế - xã hội có thể chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là trong quá trình xây dựng; Giai đoạn thứ hai là đưa vào vận hành. Cả 2 giai đoạn đều tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Với dự kiến tổng chi phí đầu tư xấp xỉ 70 tỷ USD, đây là dự án có quy mô lớn nhất từ trước đến nay. Mức chi đầu tư này sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế trong suốt thời gian dự án thi công. “Qua đánh giá sơ bộ, nếu như số vốn này được đưa vào triển khai từ nay đến năm 2035 thì tác động của đầu tư đường sắt cao tốc độ cao giúp tăng khoảng 0,97% GDP mỗi năm. Đây là con số hết sức đáng kể, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế”, ông Phương cho biết.
Các chuyên gia cho rằng, đây là thời điểm phù hợp triển khai Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam |
Ba giải pháp, bốn phương án huy động nguồn lực
Giai đoạn 2 sau khi dự án đưa vào khai thác, vận hành sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế - xã hội như giúp gia tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là giảm chi phí logistics, góp phần đáng kể cho phát triển các ngành công nghiệp, ngành sản xuất kinh doanh có sử dụng đến tuyến đường sắt này. “Đây mới chỉ là những đánh giá sơ bộ. Chắc chắn sau này sẽ có những đánh giá cụ thể hơn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật”, Thứ trưởng Phương cho biết.
Một lo ngại đặt ra vì đây là dự án có tổng mức đầu tư lớn. Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Tài chính Bùi Văn Khắng cho biết, chúng ta xác định đây là một dự án trọng điểm quốc gia và có nhiều năm chuẩn bị cho công tác đầu tư. Về chuẩn bị tài chính, các bộ, ngành thời gian qua đã phối hợp rất chặt chẽ và thống nhất đưa ra ba nhóm giải pháp điều hành tổng thể và bốn phương pháp huy động nguồn lực.
Cụ thể, ba nhóm giải pháp điều hành tổng thể gồm: Đổi mới mô hình tăng trưởng, điều hành kinh tế - xã hội linh hoạt, hiệu quả để góp phần tăng thu ngân sách hằng năm với tinh thần năm sau phải cao hơn năm trước; Điều hành chính sách tài khóa linh hoạt, hiệu quả theo hướng triệt để tiết kiệm và chống lãng phí để tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển; Sửa đổi thể chế, tháo gỡ nút thắt, điểm nghẽn trong thu hút nguồn lực trong lĩnh vực tài chính, đầu tư (giải pháp này Chính phủ đã có tờ trình trình Quốc hội thảo luận, thông qua trong Kỳ họp thứ 8 này).
Về bốn phương án huy động nguồn lực, ông Bùi Văn Khắng cho biết, đầu tiên là xây dựng kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm cho ba giai đoạn đến năm 2035 trên tinh thần chủ động, cân đối nguồn lực để đảm bảo đầy đủ các nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách. Trong đó, tập trung ưu tiên chi cho đầu tư phát triển, nhất là các dự án quốc gia và trọng điểm ngành giao thông vận tải, trong đó có dự án đường sắt tốc độ cao, với tinh thần kết hợp cả ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, lấy ngân sách Trung ương giữ vai trò chủ đạo.
Thứ hai, thu hút nguồn lực, huy động trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn lãi suất phù hợp, với điều kiện thị trường và tiến độ thực hiện của các dự án. Thứ ba, thu hút nguồn lực đầu tư trong nước bao gồm cả hình thức hợp tác công tư. Thứ tư, huy động nguồn lực ngoài nước có ưu đãi cao, điều kiện đàm phán hợp lý và ít ràng buộc.
“Với ba giải pháp và bốn phương án huy động nguồn lực như thế, chúng ta tin tưởng rằng công tác chuẩn bị tài chính cho dự án đường sắt tốc độ cao đã sẵn sàng để đảm bảo được nguồn lực về tài chính ở mức cao nhất theo lộ trình phê duyệt và tiến độ thực hiện dự án”, Thứ trưởng Bộ Tài chính Bùi Văn Khắng chia sẻ.