Quyền xử lý TSBĐ, hiện trạng và những khó khăn trong quá trình xử lý
Khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện quyền xử lý TSBĐ của TCTD | |
Xử lý nợ xấu: Phải đảm bảo quyền xử lý TSBĐ cho ngân hàng | |
Gian nan hành trình xử lý tài sản bảo đảm (Kỳ 2) |
Ảnh minh họa |
Trong những năm qua, Ngân hàng TMCP Á Châu (sau đây gọi tắt là ACB) đã nỗ lực cùng ngành Ngân hàng giải quyết nợ xấu, trong đó biện pháp quan trọng nhất là xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Ngoài những kết quả đã đạt được, bên cạnh đó còn những khó khăn, vướng mắc cần được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các cơ quan chức năng phối hợp xử lý nhằm đưa công tác xử lý tài sản bảo đảm đạt hiệu quả cao nhất, góp phần giảm tỷ lệ nợ xấu, khai thông nguồn vốn trong nền kinh tế để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
ACB xin gửi đến Ban tổ chức Bài tham luận về Quyền xử lý tài sản bảo đảm, hiện trạng và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý và các kiến nghị nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác xử lý tài sản bảo đảm trong thời gian tới.
1.Thực trạng xử lý tài sản bảo đảm tại ACB:
Quyền xử lý tài sản bảo đảm của bên nhận bảo đảm là quyền được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan, theo đó bên có nghĩa vụ khi không thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thì bên có quyền (bên nhận bảo đảm) có toàn quyền xử lý tài sản bảo đảm thông qua các hình thức như phát mãi, nhận tài sản đảm bảo để cấn trừ nợ, tự mình xử lý tài sản đảm bảo…Quyền xử lý tài sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng hiện nay được cụ thể hóa bằng các điều khoản quy định trong các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm ký kết giữa khách hàng và tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay để thực hiện quyền xử lý tài sản bảo đảm là công việc không hề đơn giản, mất rất nhiều thời gian, chi phí mà khi đã thực hiện xong thì kết quả đạt được cũng không cao, gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các tổ chức tín dụng.Nguyên nhân đó có thể đến từ chính bản thân các tổ chức tín dụng, từ chính sách pháp luật, từ quá trình vận dụng pháp luật của cơ quan chức năng và cả sự hợp tác từ phía khách hàng.
Hiện nay, tại ACB việc xử lý tài sản bảo đảm chủ yếu dựa vào các phương thức sau:
a)Ngân hàng và chủ sở hữu phối hợp xử lý tài sản bảo đảm:
Đây là việc Ngân hàng và chủ sở hữu phối hợp xử lý tài sản bảo đảm bằng một trong các cách sau: Ngân hàng nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo đảm, bán tài sản cho bên thứ ba, bên bảo đảm ủy quyền cho Ngân hàng bán tài sản…Đây là phương thức xử lý tài sản bảo đảm hiệu quả nhất vì thời gian xử lý nhanh, ít gây tốn kém chi phí cho cả hai bên. Tuy nhiên, phương thức xử lý này chỉ thực hiện được khi chủ sở hữu tài sản hợp tác với ngân hàng nên trong thời gian qua thì số vụ việc xử lý tài sản bảo đảm theo phương thức này chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 30% trên tổng số hồ sơ nợ quá hạn có tài sản bảo đảm.
b)Ngân hàng tự xử lý tài sản đảm bảo:
Theo quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Thông tư số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/06/2014 hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm thì ngân hàng có quyền tự xử lý tài sản đảm bảo theo hợp đồng đã ký kết khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Khi đó, ngân hàng có quyền tự bán tài sản đảm bảo cho người khác hoặc thông qua bán đấu giá theo thỏa thuận.
Để thực hiện được quyền tự xử lý này thì việc thu giữ tài sản bảo đảm của bên bảo đảm đóng vai trò then chốt, quyết định việc xử lý tài sản có được hay không. Tuy nhiên, khi khách hàng không hợp tác thì sự phối hợp của các cơ quan chức năng nhà nước trong việc hỗ trợ ngân hàng thu giữ tài sản bảo đảm thì rất hạn chế, rất ít cơ quan chính quyền địa phương hiểu và hỗ trợ việc thu giữ này nên việc thu giữ tài sản bảo đảm hầu như khó có thể thực hiện được. Hiện nay số vụ việc ngân hàng tự xử lý tài sản bảo đảm chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, chưa tới 1% và chủ yếu là xử lý tài sản bảo đảm là động sản (phương tiện vận tải, hàng hóa…).
c)Xử lý tài sản bảo đảm thông qua khởi kiện, thi hành án:
Đây là phương thức truyền thống và phổ biến thường thấy ở các ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ, trong đó ACB cũng không phải là ngoại lệ. Khi đó, ngân hàng sẽ khởi kiện vụ án để yêu cầu Tòa tuyên buộc khách hàng trả nợ, nếu không trả được thì phát mãi tài sản đảm bảo để thu hồi thông qua cơ quan thi hành án. Việc khởi kiện khách hàng ra tòa án là biện pháp cuối cùng và không còn sự lựa chọn nào khác để xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ. Ngay cả khi có được bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án, việc xử lý tài sản bảo đảm của người phải thi hành án cũng không dễ dàng và thường kéo dài từ 2-3 năm. Tại ACB phương thức xử lý tài sản bảo đảm này chiếm đa số trong các vụ việc đã và đang xử lý.
2.Khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm:
Để xử lý được tài sản đảm bảo nhanh và hiệu quả thì ngoài việc khách hàng hợp tác với ngân hàng thì các cơ quan chức năng như UBND cấp xã, Cơ quan Công an, Tòa án, Thi hành án phải giải quyết vụ việc theo đúng chức năng của mình một cách nhanh nhất và đúng pháp luật. Tuy nhiên, thực tế hiện nay thì quyền xử lý tài sản bảo đảm của ngân hàng còn rất hạn chế và gặp một số những khó khăn, vướng mắc sau:
- Đối với việc Ngân hàng và chủ sở hữu phối hợp xử lý tài sản bảo đảm: Mặc dù tài sản bảo đảm đã được xác lập phù hợp với quy định của pháp luật (công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm) và chỉ bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tại ngân hàng, khi phát sinh nghĩa vụ bảo đảm, Ngân hàng và chủ sở hữu thống nhất phương thức xử lý tài sản là bán tài sản bảo đảm cho bên thứ ba nhưng giao dịch này đôi khi bị ngăn chặn bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Tòa án, thi hành án) vì chủ sở hữu tài sản bảo đảm có nợ của bên thứ 3 và bên thứ 3 đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn giao dịch chuyển nhượng đối với tài sản bảo đảm của ngân hàng. Vì các ngăn chặn này dẫn đến việc ngân hàng mất quyền xử lý tài sản bảo đảm của mình được pháp luật thừa nhận hoặc ngân hàng phải tốn rất nhiều công sức để làm việc với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải tỏa các ngăn chặn này rồi mới thực hiện được quyền xử lý tài sản bảo đảm của mình.
- Đối với phương thức ngân hàng tự xử lý tài sản bảo đảm:
+ Hiện nay ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn khi thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Tại Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm khi bên giữ tài sản không chịu giao tài sản bảo đảm mặc dù đã quá thời hạn trong thông báo về xử lý tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, nếu không có sự hợp tác, sự tự nguyện của bên bảo đảm trong việc bàn giao tài sản thì mọi nỗ lực tiếp theo của bên nhận bảo đảm đều vô nghĩa. Bởi bên nhận bảo đảm không có quyền cưỡng chế, tịch thu hay kê biên tài sản. Mặt khác, cho dù pháp luật về giao dịch bảo đảm có quy định rằng bên nhận bảo đảm có thể yêu cầu Ủy ban Nhân dân có thẩm quyền và công an đảm bảo công tác xử lý tài sản bảo đảm nhưng không thực sự được áp dụng hiệu quả trên thực tế vì các đơn vị này cũng chỉ thực hiện các công việc có tích chất “hỗ trợ” chứ không có tính quyết định để buộc bên bảo đảm phải bàn giao tài sản cho ngân hàng. Ngoài ra, hiện nay một số cơ quan báo chí, dư luận xã hội còn có tư tưởng xem việc thu giữ tài sản bảo đảm của Bên nhận bảo đảm là hành vi trái pháp luật vì vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo đức xã hội. Do đó, Bên nhận bảo đảm rất e ngại trong việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
+ Ngay cả trong trường hợp ngân hàng có thu giữ được tài sản bảo đảm thì rất có ít tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức có chức năng bán đấu giá tài sản hợp tác với ngân hàng để xử lý tài sản bảo đảm nếu ngân hàng không đưa ra được ủy quyền của bên bảo đảm cho ngân hàng xử lý tài sản bảo đảm.
- Đối với việc ngân hàng xử lý tài sản thông qua khởi kiện, thi hành án:
+ Theo Bộ luật Tố tụng dân sự, thời gian để giải quyết một vụ án là 2 tháng tính từ ngày thụ lý, tuy nhiên có một số Tòa vì nhiều lý do khác nhau đã xử lý vụ việc kéo dài đến 1 năm, thậm chí có vụ kéo dài đến 3-4 năm vẫn chưa giải quyết xong. Khi đó, cả ngân hàng và khách hàng đều bị thiệt hại nên khi xử lý tài sản đảm bảo xong không đủ trả nợ cho ngân hàng là điều dễ nhận thấy.
+ Vẫn còn một số Tòa còn không ghi nhận quyền xử lý tài sản đảm bảo của ngân hàng trong bản án, một số tòa chỉ chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm trên dư nợ gốc mà không chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm trên số lãi phát sinh trên dư nợ gốc được ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm.
+ Đối với một số trường hợp khi khách hàng bỏ trốn thì một số Tòa vẫn đình chỉ giải quyết vụ án với lý do không đủ điều kiện thụ lý, mặc dù pháp luật tố tụng dân sự quy định và cả trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp đều có ghi nhận là nếu khách hàng bỏ trốn hoặc thay đổi nơi cư trú mà không thông báo thì được xem là cố tình dấu địa chỉ và Tòa phải giải quyết theo thủ tục chung.
+ Hơn nữa trong vài năm gần đây có xảy ra hiện tượng, khi tài sản đảm bảo đem đi thế chấp có người ở nhờ, ở thuê thì khi giải quyết Tòa đưa những người này vào vụ án với tư cách là người có quyền, nghĩa vụ liên quan, việc này làm vụ án kéo dài do phải triệu tập những người này, trong khi những người ở nhờ, ở thuê thường xuyên thay đổi khiến vụ án thêm phần phức tạp.
+ ACB còn vướng phải những vụ án mà tài sản sau khi thế chấp ngân hàng thì bị chủ cũ tranh chấp yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà với lý do là bên mua chưa trả hết tiền. Trong khi hầu hết các Tòa tuyên công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất, mua bán nhà là hợp pháp do đã hoàn thành thủ tục công chứng và đăng ký, thì có một số Tòa lại tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng, mua bán; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu đang thế chấp tại ngân hàng. Điều này thật vô lý và trái luật, đồng nghĩa với việc ACB mất quyền đối với tài sản đảm bảo của mình, chuyển khoản vay từ thế chấp sang tín chấp.
+ Tại giai đoạn thi hành án mặc dù bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng từ lúc Cơ quan thi hành án thụ lý đến lúc kê biên để xử lý tài sản thường kéo dài, có vụ kéo dài 3-4 năm vẫn chưa tiến hành kê biên. Việc kéo dài thời gian xử lý tài sản trên làm ảnh hưởng đến tài sản đảm bảo do phải tốn kém chi phí bảo quản, chất lượng công trình xây dựng xuống cấp nên giảm sút giá trị, khách hàng tẩu tán tài sản gây thiệt hại cho ngân hàng.
+ Khi đã kê biên xong thì khâu định giá thường không sát với thị trường nên tài sản phải bán nhiều lần, thủ tục thông báo, niêm yết của Thi hành án thường kéo dài khiến việc xử lý tài sản đảm bảo đã khó khăn lại thêm khó khăn.
3.Một số kiến nghị, đề xuất:
Từ thực trạng xử lý tài sản thế chấp mà ACB đã nêu, cùng với những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Để việc xử lý tài sản thế chấp nhanh chóng và hiệu quả nhất, nay ACB kiến nghị, đề xuất những vấn đề sau:
- Đối với việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm khi ngân hàng và chủ sở hữu phối hợp xử lý tài sản thì đề nghị Ngân hàng Nhà nước có văn bản phản ánh với Tòa án Nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể đối với trường hợp này.
- Quyền tự xử lý tài sản của bên thế chấp phải được ưu tiên trước hết. Để làm được việc này thì ACB phải thực hiện được chức năng thu giữ tài sản về cả mặt thủ tục lẫn thực tế. Do vậy, các cơ quan chức năng đặc biệt là chính quyền cơ sở phải hỗ trợ tốt cho ngân hàng trong việc thu giữ tài sản đã được ghi nhận trong Nghị định 163/NĐ-CP và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Về thủ tục tố tụng tại Tòa phải đảm bảo đúng thời gian quy định, tránh việc tùy tiện trong giải quyết để vụ án kéo dài gây thiệt hại cho các bên như đã nêu ở phần trên.
- Tuân thủ đúng quy định tại điều 192 Bộ luật Tố tụng trong trường hợp khách hàng bỏ trốn hoặc cố tình dấu địa chỉ, khi đó Tòa tống đạt và niêm yết đúng quy định, tiến hành xét xử theo thủ tục chung, không được đình chỉ vụ án vì lý do nêu trên. Ngoài ra, Tòa không nên đưa những người ở nhờ, ở thuê vào vụ án với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan, nếu họ có tranh chấp với bên thế chấp tài sản thì tách thành một vụ án khác để giải quyết.
- Về hủy hợp đồng, giấy chứng nhận do bên thế chấp chưa trả hết tiền cho chủ cũ: trường hợp này đề nghị Ngân hàng Nhà nước cần có văn bản gửi đến Tòa án nhân dân tối cao phản ánh và kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao có Nghị quyết quy định cụ thể về vấn đề này để thống nhất đường lối xét xử trong cả nước đối với những vụ án tương tự.
- Về thi hành án: Cơ quan thi hành án cấp trên và Viện Kiểm sát cần giám sát chặt chẽ việc thi hành những bản án có điều kiện thi hành đúng thời gian quy định. Tránh tình trạng kéo dài việc thi hành bản án như hiện nay sẽ dẫn đến tiêu cực trong trong quá trình thực hiện.
Trên đây là bài tham luận của ACB về thực trạng xử lý tài sản đảm bảo, những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện và một số kiến nghị nhằm giải quyết khó khăn trong thời gian tới.