Chỉ số kinh tế:
Ngày 15/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.144 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ I: Tiền đồng

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Vua Nguyễn Thánh Tổ, tên thật Nguyễn Phúc Hiệu, tự Phúc Đảm, là con thứ tư của vua Gia Long, sinh năm 1791, lên ngôi năm 1820 với niên hiệu Minh Mệnh (1820–1841). Ông trị vì 21 năm, nổi tiếng là vị vua cần mẫn, chú trọng quản lý triều chính và xây dựng đất nước, đạt nhiều thành tựu quan trọng. Một trong những điểm nổi bật thời Minh Mệnh là sự phong phú về tiền tệ, cả về loại hình lẫn số lượng lưu hành. Ngay từ năm đầu tiên (1820), nhà vua đã cho đúc tiền “Minh Mệnh thông bảo” 6 phân bằng đồng và kẽm. Việc chế tạo tuân thủ quy chuẩn chặt chẽ về tỷ lệ hợp kim và quy trình sản xuất, đảm bảo số lượng tiền lưu thông và tiền công cho thợ đúc. Tiền đồng Minh Mệnh thông bảo có 4 chữ nổi “明命通寳” ở mặt trước theo lối Chân thư, chữ to, nét rõ, mặt sau trơn, vành viền nổi. Đồng tiền khá mỏng, đường kính khoảng 22,4–25,8mm, dày 1mm, nặng 2,5–3,8g. Đây là minh chứng cho sự chú ý của vua Minh Mệnh trong việc quản lý kinh tế và phát triển đất nước, tạo tiền đề cho một hệ thống tiền tệ ổn định và chuẩn mực hơn.
aa

Vua Nguyễn Thánh Tổ có tên là Nguyễn Phúc Hiệu, tự là Phúc Đảm, con thứ tư của vua Gia Long, sinh năm Tân Hợi (1791), nối ngôi tháng Chạp năm Kỷ Mão (đầu năm 1820), niên hiệu là Minh Mệnh (1820-1841).

Vua Minh Mệnh trị vì đất nước khá dài (1820-1841). Đây là vị vua chăm lo tới công việc triều chính, chú ý đến xây dựng đất nước và đạt được nhiều thành tựu hơn cả. Dưới đời vua Minh Mệnh, tiền tệ phong phú về thể loại và số lượng được lưu thông trên thị trường.

a. Tiền đồng

- Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 6 phân, đúc năm Minh Mệnh thứ nhất (1820)

“Canh Thìn, Minh Mệnh năm thứ nhất [1820],..Tháng 2..Bắt đầu đúc tiền “Minh Mệnh thông bảo” 6 phân bằng đồng và bằng kẽm, sai lấy mẫu tiền gửi cho cục Bảo tuyền ở Bắc Thành theo đúng phép mà đúc. Định lệ tiền công liệu (Cứ trong 100 cân đồng kẽm thì có 49 cân đồng đỏ, 45 cân kẽm, 6 cân chì; đúc thành tiền đồng 37 quan 8 tiền, cấp tiền công liệu 5 quan 5 tiền 33 đồng 6 phân 2 ly. Mỗi 100 cân kẽm đúc thành tiền kẽm 41 quan, cấp tiền công liệu 3 quan 4 tiền 21 đồng 6 phân 5 ly).

Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 6 phân, được đặt tên là do đường kính và trọng lượng tiền quy định chứ không phải lưng có chữ “Lục phân” -六分 như ở tiền Gia Long. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寳 theo kiểu Chân thư. Khổ chữ to, nét chữ rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên trước và sau đều nổi rõ. Tiền khá mỏng. Đường kính 22,4 - 25,8mm, dày 1mm, nặng 2,5 - 3,8gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ I: Tiền đồng
Ảnh 1.11.9. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, 6 phân,
chữ “Thông” - 通 đầu vuông
Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ I: Tiền đồng

Ảnh 1.11.10.Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư, 6 phân,
chữ “Thông” - 通 đầu tam giác.

Năm Nhâm Ngọ, Minh Mệnh thứ 3 (1822), nhà vua lại cho đúc tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 6 phân, nguyên liệu là dùng tiền ngụy hiệu [của Tây Sơn] nấu lại để đúc với quy định “Đúc hạng tiền đồng 6 phân thì cứ mỗi 100 cân dùng tiền đồng ngụy hiệu 52 cân, khối đồng đỏ 27 cân, kẽm 20 cân 14 lạng, thiếc 2 lạng).

Tiền này tới năm Ất Dậu (1825) thì bãi bỏ nhưng tiền kẽm thì vẫn dùng như cũ.

- Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 9 phân, đúc năm 1825

“Ất Dậu, năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), tháng 5,…Bắt đầu đúc tiền đồng nặng 9 phân. Trước kia một đồng tiền lấy nặng 6 phân làm chuẩn. Vua sai đúc xen tiền nặng 1 đồng cân. Hữu ty có nhiều người nói giá đồng đắt mà đúc tiền nặng, nhà nước không có lợi. Vua nói: “Nhà nước trị tài có đạo, sao lại so đo từng tý! Vả tiền mỏng thì dễ hỏng, sao bằng đúc cho dày nặng để lợi dài lâu, đằng nào lợi hơn? Bèn định một đồng tiền nặng 9 phân, sai Vũ Khố chế mẫu ban cho trường Đúc tiền ở Kinh cùng cục Bảo tuyền Bắc Thành để đúc, mà bãi bỏ tiền 6 phân. Tiền kẽm thì dùng 6 phân như cũ. Rồi định phép đúc lẫn đồng và kẽm (Nếu lấy tiền nguỵ mà đúc thì mỗi 100 cân dùng tiền nguỵ 90 cân, đồng đỏ một khối 5 cân, và kẽm 5 cân, nếu lấy tiền cổ nhà Thanh mà đúc thì mỗi 100 cân dùng tiền Thanh 98 cân, kẽm 2 cân, nếu lấy nồi đồng mà đúc thì mỗi 100 cân dùng nồi đồng 49 cân, kẽm 49 cân, chì 2 cân”.

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”-明命通寳 theo kiểu Chân thư. Khổ chữ to, nét chữ rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên trước và sau đều nổi rõ. Đường kính 25mm, dày 1mm, nặng 3,2gr

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ I: Tiền đồng

Ảnh 1.11.11. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư,
lưng tiền trơn, nặng 9 phân, đk 25mm

- Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳 có hai mặt chữ

Đồng này do lỗi kỹ thuật, 2 mặt đều đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寳 theo kiểu Chân thư. Nguyên do là người thợ dùng 2 mang khuôn đều là mang mặt trước mà không dùng khuôn lưng. Tiền có đường kính 22mm, dày 1mm, nặng 2,5gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ I: Tiền đồng
Ảnh 1.11.12. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寳, kiểu Chân thư hai mặt chữ.

Đón đọc Kỳ II: Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Tiền kẽm


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.