Chỉ số kinh tế:
Ngày 15/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.144 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Ngoài việc phát hành tiền đồng thông thường, vua Minh Mệnh còn cho đúc loại tiền đồng lớn có mỹ hiệu, mang ý nghĩa đặc biệt. Tháng 11 năm Đinh Dậu, Minh Mệnh thứ 18 (1837), triều đình ban hành quy định chính thức: tiền đồng lớn có giá trị quy đổi, 1 đồng bằng 1 tiền, được lấy làm chuẩn trong giao dịch. Nếu ai tự ý nâng hoặc hạ giá trị so với quy định sẽ bị xử tội theo luật. Loại tiền này không chỉ phục vụ lưu thông mà còn có chức năng biểu tượng, nhằm ca ngợi công đức của vua, đề cao sự hưng thịnh của triều đại và gửi lời chúc lành tới các quan lại trong triều.
aa

c. Tiền đồng lớn

Ngoài tiền đồng, vua Minh Mệnh đã cho đúc tiền đồng lớn có mỹ hiệu. Tháng 11 năm Đinh Dậu, Minh Mệnh thứ 18 (1837) “Nhà nước đã chuẩn bị giá trị hạng tiền đồng lớn có mỹ hiệu (1 đồng bằng 1 tiền) từ nay có mua bán lấy đó làm chuẩn, có thuận tình tăng giá cũng cho phép người nào giảm bớt thì theo luật trái phép xử tội”.

Loại tiền này dùng để biểu dương công đức nhà vua, tán dương sự tốt đẹp của triều đại, chúc mọi điều lành tới các quan lại trong triều, như là chức năng chủ yếu. Tuy nhiên, chúng cũng được lưu thông, nhưng giá trị cao hơn các loại tiền nhỏ. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ, hoặc 8 chữ, có nghĩa đẹp gọi là mỹ tự, chất lượng đồng tốt. Đợt đúc nhiều nhất hàng vạn đồng, vào tháng 5 năm Canh Dần, Minh Mệnh thứ 11 (1830).

*Các loại tiền mỹ hiệu 4 chữ

- Minh Mệnh thông bảo - Nguyên hanh lợi trinh

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Nguyên hanh lợi trinh”- 元亨利貞. Tiền có đường kính 51mm, dày 2,3mm, nặng 26,2gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.14. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ “Nguyên hanh lợi trinh”- 元亨利貞, đk 51mm

- Minh Mệnh thông bảo - Phúc lý tuy tương.

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Phúc lý tuy tương”- 福履綏將. Tiền có đường kính 51mm, dày 2mm, nặng 23gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn

Ảnh 1.11.15. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Phúc lý tuy tương”- 福履綏將, đk 51mm

- Minh Mệnh thông bảo - Đế đức quảng vận

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Đế đức quảng vận”- 帝德廣運. Tiền có đường kính 51,2mm, dày 2,4mm, nặng 26,6gr

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.16. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Đế đức quảng vận”- 帝德廣運, đk 51,2mm

- Minh Mệnh thông bảo - Lợi dụng hậu sinh

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Lợi dụng hậu sinh”- 利用厚生. Đường kính 50,8mm, dày 2,1mm, nặng 23gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.17. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền có 4 chữ
“Lợi dụng hậu sinh”- 利用厚生, đk 50,8mm

- Minh Mệnh thông bảo - Tứ phương vi tắc

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Tứ phương vi tắc”- 四方爲則. Đường kính 51,5mm, dày 2,5mm, nặng 23,1gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.18. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Tứ phương vi tắc”- 四方爲則, đk 51,5mm

- Minh Mệnh thông bảo - Cương kiện trung chính

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nối 4 chữ “Cương kiện trung chính”- 剛健中正. Đường kính 50,8, dày 2,4mm, nặng 26,2gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.19. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Cương kiện trung chính”- 剛健中正, đk 50,8mm

- Minh Mệnh thông bảo - Gia cấp nhân túc

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Gia cấp nhân túc”- 家給人足. Đường kính 51mm, dày 2,5mm, nặng 25,6gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.20. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Gia cấp nhân túc” - 家給人足, đk 51mm

- Minh Mệnh thông bảo - Xuyên chí sơn tăng

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Xuyên chí sơn tăng”- 川至山增. Đường kính 51,3mm, dày 2,3mm, nặng 29,5gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.21. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Xuyên chí sơn tăng” 川至山增, đk 51,3mm

- Minh Mệnh thông bảo - Trung hoà vị dục

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Trung hoà vị dục”- 中和位育. Đường kính 51mm, dày 2,5mm, nặng 28gr

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.22. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Trung hoà vị dục” 中和位育, đk 51mm

- Minh Mệnh thông bảo - Liễm phúc tích dân

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Liễm phúc tích dân”- 斂福錫民. Đường kính 50,8mm, dày 2,2mm, nặng 23,8gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.23. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Liễm phúc tích dân” 斂福錫民, đk 50,8mm

- Minh Mệnh thông bảo - Phú thọ đa nam

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “ Phú thọ đa nam”- 富壽多男. Đường kính 41.9mm, dày 1,9mm, nặng 11,5gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.24. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ
“Phú thọ đa nam” - 富壽多男, đk 41,9 mm

*Các loại tiền mỹ hiệu 8 chữ

- Minh Mệnh thông bảo - Hiền hiền thân thân lạc lạc lợi lợi

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 8 chữ “Hiền hiền thân thân lạc lạc lợi lợi”- 賢>親>樂>利, đọc vòng ngược chiều kim đồng hồ. Đường kính 51mm, dày 2,5mm, nặng 29,2gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.25. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 8 chữ
Hiền hiền thân thân lạc lạc lợi lợi 賢>親>樂>利>, đk 51mm

- Minh Mệnh thông bảo - Thân thân trưởng trưởng lão lão ấu ấu

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 8 chữ “Thân thân trưởng trưởng lão lão ấu ấu”- 親>長>老>幼>, đọc vòng ngược chiều kim đồng hồ. Đường kính 51,5mm, dày 2mm, nặng 25,5gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.26. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 8 chữ
“Thân thân trưởng trưởng lão lão ấu ấu”- 親>長>老>幼>, đk 51,5mm

- Minh Mệnh thông bảo - Vương đạo đãng đãng, thánh mô dương dương

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 8 chữ “Vương đạo đãng đãng, thánh mô dương dương”, đọc vòng ngược chiều kim đồng hồ - 王道蕩蕩聖謨洋洋. Đường kính 51,2mm, dày 2mm, nặng 24,5gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.27. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu chữ Chân, lưng tiền đúc 8 chữ “Vương đạo đãng đãng, thánh mô dương dương”- 王道蕩蕩聖謨洋洋, đk 51,2mm

- Minh Mệnh thông bảo - Quốc phú binh cường, nội an ngoại tĩnh

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶, kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 8 chữ “Quốc phú binh cường nội an ngoại tĩnh”- 國富兵彊內安外靜 , đọc vòng ngược chiều kim đồng hồ. Đường kính 51,5m, dày 2mm, nặng 29,8gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.28. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư - Lưng tiền đúc 8 chữ
“Quốc phú binh cường nội an ngoại tĩnh” 國富兵彊內安外靜, đk 51,5mm

- Minh Mệnh thông bảo - Quốc thái dân an, phong điều vũ thuận

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và viền lỗ vuông. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Mệnh thông bảo”- 明命通寶, kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 8 chữ “Quốc thái dân an, phong điều vũ thuận”, đọc vòng ngược chiều kim đồng hồ - 國泰民安風調雨順. Đường kính 51,1mm, dày 2mm, nặng 25,3gr.

Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Kỳ III: Tiền đồng lớn
Ảnh 1.11.29. Tiền Minh Mệnh thông bảo 明命通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 8 chữ
Quốc thái dân an, phong điều vũ thuận 國泰民安風調雨順, đk 51,1mm

--

Đón đọc Kỳ IV: Tiền đời vua Nguyễn Thánh Tổ (1820 - 1841) - Tiền đồng lớn


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa:Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.