Chỉ số kinh tế:
Ngày 4/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.152 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.946/26.360 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Trong giai đoạn này, việc lưu hành tiền Đông Dương được phân chia làm hai thời kỳ khác biệt. Thời kỳ đầu từ ngày 21/01/1875 (Ngân hàng Đông Dương thành lập) đến ngày 05/7/1885 (kinh thành Huế thất thủ), được gọi là Nam Kỳ thuộc Pháp (Cochinchine). Thời kỳ sau bắt đầu từ sau ngày 05/7/1885 đến ngày 29/07/1941 (Nhật và Pháp ký hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương), được gọi là thời kỳ Pháp thuộc.
aa
Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)
Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945

Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine (1875 – 1885)

Thời kỳ này, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành 2 loại tiền kim loại bằng 2 chất liệu: đồng và bạc.

Tiền bằng đồng

Tiền 1 cent (1875): Mặc dù Ngân hàng Đông Dương thành lập ngày 21/01/1875 nhưng phải đến năm 1879, thực dân Pháp mới cho phát hành đồng tiền đầu tiên bằng kim loại đồng và bạc. Trước thời điểm năm 1878, vì nhu cầu cần mệnh giá nhỏ nên Ngân hàng Đông Dương đã đưa vào lưu thông tại Nam Kỳ 1 triệu đồng xu 1 cent 1875K vốn được đúc để phát hành tại Pháp nhưng lại được đem sang Annam tiêu dùng. Đây được coi là đồng xu đầu tiên của Ngân hàng Đông Dương cho lưu hành tại Annam.

Tiền xu 1 cent 1875K đầu tiên được tiêu dùng trong doanh trại quân đội thực dân Pháp, sau đó được dùng để mua bán và trao đổi vật phẩm với người dân địa phương. Tuy nhiên, do người dân Annam có thói quen dùng dây để xỏ lỗ đồng tiền như đối với tiền lỗ vuông của triều Nguyễn, nên thực dân Pháp đã đem 10.000 đồng tiền này tới xưởng Ba Son để đục lỗ hình tròn ở giữa, vì vậy mới có tên dân gian là “đồng xu Ba Son”.

Đồng tiền được đúc bằng đồng đỏ có đường kính 15mm, dày 1,1mm, trọng lượng khoảng 0,7 - 0,8 gr phụ thuộc vào kích cỡ lỗ tròn của đồng tiền. Mặt trước đồng tiền đúc nổi hình tượng Marianne, đầu không đội mũ quay mặt về phía trái đồng tiền, xung quanh viền xu có dòng chữ “REPUBLIQUE FRANCAISE”; phía dưới ghi số năm đúc, hai bên số năm đúc có hai ngôi sao. Mặt sau đồng tiền có mệnh giá “1 cent” ở chính giữa, viền cạnh xu có dòng chữ “LIBERTE - EGALITE – FRATERNITE”, phía dưới có chữ K - chỉ nơi đúc là Bordeaux (Pháp) và ký hiệu bảo an hình chữ thập, hình mỏ neo; không có bảo an xẻ rãnh hình răng cưa tại viền cạnh xu.

Đồng xu 1 cent (Bason) được ấn định mệnh giá 1 cent và được lưu hành tại Nam Kỳ. Tuy nhiên đồng tiền này không được người dân Nam Kỳ ưa chuộng vì nó quá nhỏ và nhẹ so với trọng lượng tiền tròn lỗ vuông truyền thống của triều Nguyễn. Vì vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến nó sớm biến mất trong lưu thông.

Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945
Tiền 1 cent, 1875 đường kính 15mm

Ngoài việc phát hành 10.000 đồng tiền 1 cent 1875K Bason, Ngân hàng Đông Dương còn phát hành hai loại dành riêng cho Nam Kỳ được đúc tại Paris (Pháp) là đồng Bách phân chi nhất (loại Thẻ bài) có mệnh giá là 1 cent và đồng xu có mệnh giá 1/5 cent Sapèque (hay còn gọi là đồng xu Hai điếu).

Tiền 1 cent Bách phân chi nhất 百分之一: Tiền này được gọi là loại tiền cách tân vì vừa mang hình tượng đồng tiền xu của Ngân hàng Đông Dương lưu hành tại Nam Kỳ, vừa mang hình tượng cổ tiền của triều Nguyễn - nhưng không có lỗ vuông truyền thống. Đồng tiền này có hình tròn, chất liệu đồng, có đường kính 31mm, dày 1,7 mm, trọng lượng 9,91 gram. Mặt trước, chính giữa là hình tượng Marianne đầu đội vương miện tỏa sáng, tay phải cầm cây quyền trượng, bên trái là hình mỏ neo, bao quanh cạnh viền đồng tiền có dòng chữ “REPUBLIQUE FRANCAIS”, phía dưới có ký hiệu chữ “A” chỉ nơi đúc là Paris (Pháp), hai bên có bảo an hình con ong và mỏ neo, bên cạnh có chữ nhỏ “AB” và năm đúc ở phía dưới. Mặt sau chính giữa đúc nổi ô hình chữ nhật có 4 chữ “Bách phân chi nhất” - 百分之一 và chữ “1C”, bao quanh cạnh viền đồng tiền có dòng chữ “COCHINCHINE FRANCAISE”, “POIDS 10 GR” (chỉ trọng lượng theo gr). Cạnh đồng tiền không có xẻ răng cưa.

Từ năm 1874 đến 1885, Ngân hàng Đông Dương ba lần cho đúc tiền xu Bách phân chi nhất 百分之一 (1879, 1884 và 1885) với số lượng rất ít. Khi kinh thành Huế thất thủ, Ngân hàng Đông Dương vẫn cho đúc tiếp loại tiền này nhưng đã đổi dòng chữ trên viền cạnh xu mặt sau của đồng tiền từ “COCHINCHINE” thành “INDOCHINE”.

Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945
Tiền 1 cent Bách phân chi nhất, 1879 - 1884 đường kính 31mm

Tiền 1/5 cent - 1 sapèque: Cùng với việc phát hành tiền xu 1 cent Bách phân chi nhất (Thẻ bài), năm 1879 Pháp cũng cho phát hành tiền xu sapèque với tên thường gọi dân gian là đồng xu “Hai điếu” có mệnh giá quy đổi là 1/5 cent để đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền lẻ, mệnh giá nhỏ trong dân chúng. Đồng tiền xu này được đúc với số lượng rất lớn tới 20 triệu đồng.

Đồng xu Hai điếu được đúc bằng đồng, phỏng dáng tiền đồng triều Nguyễn với hình tròn, lỗ vuông ở giữa, đường kính 20 mm, dày 0,90 mm, trọng lượng 1,9gr. Mặt trước, bao quanh cạnh đồng tiền có dòng chữ “COCHINCHINE FRANCAISE”, phía dưới có số năm đúc 1879. Mặt sau có dòng chữ Hán 大法國之安南 - 當二 (Đại Pháp Quốc Chi An Nam – Đương Nhị) bao quanh viền cạnh của đồng tiền.

Tiền Đông Dương giai đoạn 1875-1945
Tiền 1/5 cent - 1 sapèque, 1879 đường kinh 20mm
Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955) Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)

Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc xâm lược Việt ...

Đón đọc kỳ tiếp theo: Tiền bằng bạc


Nguồn: Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng bạc

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng bạc

Về căn bản, biểu tượng trên đồng tiền kim loại bạc trong thời kỳ này không thay đổi, chỉ thay dòng chữ “COCHINCHINE” thành chữ “INDOCHINE”. Ngoài ra có một số thay đổi về trọng lượng, hàm lượng bạc và các ký hiệu bảo an trên đồng tiền.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng đồng

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng đồng

Kể từ khi kinh thành Huế thất thủ (1885) đến ngày Nhật đảo chính Pháp (3/9/1945), Ngân hàng Đông Dương đã đưa vào lưu thông 210 mẫu đồng tiền kim loại Đông Dương Indochine, gồm 12 mệnh giá, bằng nhiều chất liệu khác nhau (bạc, đồng, niken, nhôm và kẽm). Đó là các loại mệnh giá: 1 piastre; 50 cent, 20 cent, 10 cent, 5 cent, 1 cent, 1/2 cent, 1/4 cent, 1/5 cent, 1/6 cent và 1 Tael, 1/2 Tael dùng cho việc giao dịch ngoại thương với nước khác. Ngoài 210 mẫu trên, trước thời điểm thành lập Liên bang Đông Dương (17/10/1887), Ngân hàng Đông Dương đã đưa vào lưu thông 6 mẫu đồng tiền kim loại Cochinchine với 5 mệnh giá khác nhau.
Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine (1875 – 1885) - Tiền Bằng Bạc

Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine (1875 – 1885) - Tiền Bằng Bạc

Tiền kim loại bạc đúc trong giai đoạn này có 4 loại mệnh giá khác nhau: 1 piastre, 50 cent, 20 cent và 10 cent. Đồng 1 piastre được người dân quen gọi là “Đồng bạc Đông Dương” hay “Đồng bà đầm” nhằm phân biệt với đồng 8 Reals của Mê hi cô còn được gọi là đồng “Hoa xòe”, “Con cò” hay “Con ó”.
Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)

Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)

Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Từ năm 1862 đến năm 1884, triều đình Huế lần lượt ký các Hòa ước đầu hàng Pháp. Sự kiện Kinh đô Huế thất thủ (05/7/1885) đã chấm dứt quyền lực tuyệt đối của triều đình nhà Nguyễn.
Tiền thời vua Bảo Đại (1925 - 1945)

Tiền thời vua Bảo Đại (1925 - 1945)

Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ, con của vua Khải Định, lên ngôi năm 1925, niên hiệu là Bảo Đại. Tiền thời vua Bảo Đại có các loại bằng đồng, bạc và vàng.