Chỉ số kinh tế:
Ngày 15/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.144 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Ngày 1/9/1858, Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Từ năm 1862 đến năm 1884, triều đình Huế lần lượt ký các Hòa ước đầu hàng Pháp. Sự kiện Kinh đô Huế thất thủ (05/7/1885) đã chấm dứt quyền lực tuyệt đối của triều đình nhà Nguyễn.
aa

Bối cảnh lịch sử

Ngày 17/10/1887, Tổng thống Pháp Jules Grevy ký quyết định thành lập Liên bang Đông Dương (Union Indochinoise) gồm ba vùng thuộc Việt Nam ngày nay là Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam) và Nam Kỳ (Cochinchine). Đến ngày 12/4/1898, Liên bang Đông Dương bao gồm sáu vùng là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên (Campuchia) - gia nhập ngày 17/10/1887, Ailao (Lào) - gia nhập ngày 03/10/1893, Quảng Châu Loan - gia nhập ngày 12/4/1898. Thực dân Pháp đã tiến hành chế độ “chia để trị”. Ở Bắc Kỳ, chúng thực hiện chính sách “bảo hộ”, mọi quyền hành cơ bản đều nằm trong tay Thống sứ Bắc Kỳ người Pháp. Ở Trung Kỳ do Khâm sứ Trung Kỳ nắm quyền hành. Ở Nam Kỳ, thực dân Pháp áp dụng chính sách trực trị và coi đây là xứ thuộc địa.

Trong thời gian đô hộ Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn, giai đoạn 1 từ năm 1897 đến năm 1914 và giai đoạn 2 từ 1919 đến năm 1929. Trong quá trình khai thác thuộc địa, thực dân Pháp tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, mở mang công thương nghiệp, đặc biệt là đầu tư hạ tầng giao thông cùng với ngành khai khoáng nhằm mục đích vơ vét tài nguyên để đưa về chính quốc.

Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)
Chi nhánh của Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn

Ngày 21/01/1875, Tổng thống Pháp Patrice Mac-Mahon ban hành sắc lệnh thành lập Ngân hàng Đông Dương với số vốn 8 triệu Franc. Tuy nhiên, nguồn vốn ban đầu chỉ bằng 1/4 giá trị do tư nhân góp vốn dưới sự bảo hộ của Chi nhánh thương phiếu, tín dụng thành phố Li-on (Lyon) thuộc Pháp và Tín dụng kỹ nghệ và Ngân hàng Paris - Hà Lan. Ngân hàng Đông Dương có nhiều đặc quyền, đặc biệt là quyền phát hành đồng bạc Đông Dương; quyền này được gia hạn nhiều lần bằng các sắc lệnh trong thời gian 20 năm của chính phủ Pháp. Đặc quyền này mặc nhiên trở thành quyền lợi lớn cho Ngân hàng Đông Dương.

Sở dĩ Ngân hàng Đông Dương có địa bàn hoạt động rộng lớn là do sắc lệnh của chính phủ Pháp ban hành ngày 20/2/1888 gia hạn thêm 10 năm phát hành giấy bạc và mở rộng địa bàn phát hành vì vậy đã ấn định cho Ngân hàng Đông Dương vai trò to lớn.

Được chính quyền Pháp bảo trợ, ngoài chức năng thực hiện các nghiệp vụ như các ngân hàng thuộc địa, Ngân hàng Đông Dương còn chiếm lĩnh địa bàn hoạt động lớn trên tất cả các lãnh thổ hải ngoại của Pháp ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Hoạt động của Ngân hàng Đông Dương gồm ba tính chất: Ngân hàng phát hành; ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Các hoạt động của Ngân hàng Đông Dương như độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng thương mại có nhiều đặc quyền làm giàu như cho vay và chiết khấu thương phiếu, hối đoái, cầm cố, buôn bán kim quý, mở các tài khoản thanh toán để thực hiện các loại nghiệp vụ ngân hàng thương mại, đầu tư và cho vay nông nghiệp v.v....

Quy chế hoạt động của Ngân hàng Đông Dương được ấn định theo sắc lệnh ngày 21/01/1875. Thông qua vai trò đắc lực của Ngân hàng Đông Dương, thực dân Pháp đã tiến hành chính sách bành trướng của mình ra khắp các thuộc địa nhằm phục vụ lợi ích cho các tập đoàn tư bản tài chính lớn.

Ngân hàng Đông Dương có quyền quyết định phát hành tiền bạc Đông Dương được dùng trong toàn cõi Đông Dương. Giá trị của đồng tiền Đông Dương được ấn định theo ngân bản vị (bạc) hay kim bản vị (vàng) hoặc phụ thuộc vào đồng Franc Pháp qua từng giai đoạn. Vì bạc là một kim loại quý, chiếm phần lớn tỷ trọng kim loại của đồng tiền Đông Dương, cho nên dù ấn định theo giá trị nào thì giá bạc vẫn đóng một vai trò quan trọng quyết định giá trị đồng này.

Tiền kim loại

Ngân hàng Đông Dương được phép phát hành tiền giấy và tiền kim loại. Đồng bạc Đông Dương lúc này được định giá theo chế độ Ngân bản vị vì các nước Đông Dương có quan hệ thương mại chặt chẽ với các nước Viễn Đông đang dùng bạc làm bản vị tiền tệ. Nhưng đến ngày 31/5/1930, chính phủ Pháp ra quyết định từ bỏ chế độ ngân bản vị và chuyển sang chế độ kim bản vị mà không hề có một đồng tiền vàng nào đưa vào lưu thông. Như vậy nghiễm nhiên đồng bạc Đông Dương cột hẳn vào đồng Franc Pháp. Trên thị trường quốc tế 1 đồng bạc Đông Dương có giá tiền tương đương số vàng nặng 655 mgr, với hàm lượng vàng 0.9000. Từ ngày 9/01/1930, bắt đầu ban hành tỷ giá chính thức 1 đồng bạc Đông Dương đổi được 10 Franc Pháp.Trước khi thực dân Pháp xâm lược, tại Việt Nam dùng vàng bạc nén của triều Nguyễn và dưới thời vua Minh Mệnh có đúc những đồng xu bằng bạc nhưng số lượng rất ít, hơn nữa tỷ lệ bạc thấp nên không được dân chúng hoan nghênh, cho nên triều Nguyễn chỉ được dùng những đồng tiền này làm vật ban thưởng, còn gọi là tiền thưởng. Trước khi Ngân hàng Đông Dương ra đời, đồng Mê hi cô được quân đội viễn chinh Pháp du nhập vào Việt Nam và một thời gian dài trở thành đồng tiền chính thức lưu hành hợp pháp cùng với các đồng bạc ngoại thương khác theo Nghị định ngày 11/1/1887 và chúng có giá trị tại Việt Nam cho đến 3/6/1903. Trước đó, theo Nghị định ngày 15/3/1872, đồng tiền Mê hi cô đã được Bộ chỉ huy quân đội Pháp chính thức công nhận. Như vậy, trong thời gian này trên lãnh thổ Việt Nam không chỉ có duy nhất tiền Ngân hàng Đông Dương, mà còn tồn tại đan xen nhiều loại tiền khác nhau gắn với các khu vực thuộc Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ trong những khoảng thời gian khác nhau, như tiền bạc, vàng và đồng của triều Nguyễn; tiền bạc và đồng của Trung Quốc; tiền bạc và đồng của Nhật Bản; tiền ngoại thương khác tiêu dùng tại Việt Nam như đồng bạc của Tây Ban Nha, Mê hi cô, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Hồng Kông, Pháp, Anh, Mỹ...

Tiền do Ngân hàng Đông Dương phát hành (1874-1955)
Chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Hà Nội

Ngày 21/01/1875, Ngân hàng Đông Dương ra đời, nhưng phải đến năm 1879 tiền Đông Dương mới được Pháp phát hành và mới chỉ có những đồng bạc 50, 20,10 cent cùng những đồng tiền lẻ bằng đồng 1 và 1/5 cent. Từ năm 1885 trở đi, cùng với việc phát hành tiền giấy, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành tiền kim loại thường xuyên hơn, gồm nhiều mệnh giá với chất liệu khác nhau. Chất liệu đúc và thành phần hợp kim, hình dáng, khối lượng, kích thước, họa tiết và ký hiệu bảo an rất đa dạng. Mỗi loại, mỗi đồng tiền ra đời gắn liền với các diễn biến về lịch sử, văn hóa, kinh tế và chính trị trong thời kỳ đó.

Tiền kim loại được Pháp quy định rất quy củ và chặt chẽ bao gồm nhiều mệnh giá (1 piastre, 50 cent, 20 cent, 10 cent, 5 cent, 1 cent, 1/2 cent, 1/4 cent, 1/5 cent và 1/6 cent); được đúc bằng nhiều chất liệu như: bạc, đồng, niken, hợp kim niken - đồng, kẽm. Số lượng phát hành (mintage) được ghi chép đầy đủ; nơi đúc (mint marks) cũng được thể hiện rõ, cụ thể: ký hiệu A- chỉ nơi đúc tại Paris, B - đúc tại Beaumont – Le Roger (Pháp), K - chỉ nơi đúc là Bordeaux (Pháp) C- đúc tại Castlesarrasin (Pháp), H- đúc tại Healtol, Birmingham (Anh); ký hiệu bằng hình tia sét chỉ nơi đúc tại Poissy (Pháp), S- San Francisco - đúc tại Mỹ, nếu không có ký hiệu thì có thể được đúc tại Paris (Pháp) hoặc San Francisco (Mỹ), hoặc Osaka (Nhật) hoặc Hà Nội (Tonkin). Các biểu tượng, ký hiệu và các đặc điểm bảo an trên đồng tiền có nhiều loại như: hình mỏ neo, con ong, sừng sung túc (Amante), bó đuốc (Torche). Các đồng tiền còn được phân biệt bởi hình dáng, đường kính, độ dày, trọng lượng, cạnh răng cưa, cánh chim, cánh hoa. Các mẫu đúc thử (Essai, Piéfort) đều được kiểm duyệt chặt chẽ trước khi phát hành.

Đồng tiền Đông Dương được đúc bằng bạc, dù được ấn định theo ngân bản vị hoặc kim bản vị hay tỷ giá hối đoái với đồng Franc Pháp, thì vẫn bị ảnh hưởng bởi giá trị bạc - do bạc là kim loại quý chiếm phần lớn trọng lượng của đồng tiền. Cũng vì lý do này các đồng tiền bạc thường bị thu hồi, tăng giảm hàm lượng bạc để giá trị đồng tiền ngang bằng giá trị bạc.

Trên tiền kim loại Đông Dương, mặt trước thường đúc nổi hình tượng Marianne, hình của một người phụ nữ đầu đội vương miện tỏa sáng, tay phải cầm cây quyền trượng. Đây là biểu tượng của nền Cộng hòa Pháp. Mặt sau, ngoài mệnh giá, còn đúc các hình tượng như vòng nguyệt quế, cây quyền trượng (tượng trưng cho quyền lực); bó đuốc (tượng trưng cho sự thông thái và sáng tỏ); hình mỏ neo (tượng trưng cho ý chí kiên cường và lòng quả cảm).

Tiến trình phát hành tiền kim loại được giới thiệu theo các giai đoạn nối tiếp nhau và trong mỗi giai đoạn, tiền kim loại lại được phân ra các chất liệu khác nhau với các mệnh giá khác nhau.


Nguồn: Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tái chiếm Sài Gòn, sau đó mở rộng ra đánh chiếm toàn Nam Bộ, khôi phục lại chế độ thực dân cai trị ở miền Nam. Ngân hàng Đông Dương được khôi phục lại ở Nam Kỳ và tiếp tục phát hành tiền tệ trong vùng chiếm đóng.