Chỉ số kinh tế:
Ngày 15/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.144 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.937/26.351 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Nguyễn (1802 - 1945) Kỳ II - Tiền đời vua Nguyễn Thế Tổ (1802 - 1819)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu Gia Long (1802-1819), miếu hiệu khi mất là Thế Tổ. Năm 1803, nhà vua cho đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Sách Đại Nam thực lục chép: “Quý Hợi, năm Gia Long thứ 2 [1803]…
aa

Tiền các đời vua triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1883

Tiền đời vua Nguyễn Thế Tổ (1802 - 1819)

a. Tiền đồng

Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, đặt niên hiệu Gia Long (1802-1819), miếu hiệu khi mất là Thế Tổ. Năm 1803, nhà vua cho đúc tiền đồng Gia Long thông bảo. Sách Đại Nam thực lục chép: “Quý Hợi, năm Gia Long thứ 2 [1803]… Tháng 6,…Bắt đầu đúc tiền Gia Long thông bảo. Sai cai đội Cáp Văn Cẩn trông coi công việc. Đúc xong đưa 1.000 đồng ra Bắc Thành để đúc theo cho có quy thức nhất định. (Mẫu tiền, mỗi đồng đường kính 5 phân 5 ly, mỗi quan tiền nặng 2 cân 4 lạng”.

Tiền đồng Gia Long thông bảo 嘉隆通寳 có nhiều loại và nhiều kích cỡ khác nhau:

- Tiền Gia Long thông bảo 嘉隆通寳, lưng trơn

Loại tiền này đúc nhiều lần ở nhiều nơi. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Gia Long thông bảo”- 嘉隆通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ mảnh, rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền để trơn. Biên trước và sau đều hẹp và nổi rõ. Tiền rất mỏng. Tiền có đường kính 22,3-26 mm, dày 0,8-1,1mm, nặng 1,8 - 4,3gr.

Tiền triều Nguyễn (1802 - 1945) Kỳ II - Tiền đời vua Nguyễn Thế Tổ (1802 - 1819)
Ảnh 1.11.1.Tiền Gia Long thông bảo 嘉隆通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 22,3-26mm
Tiền triều Nguyễn (1802 - 1945) Kỳ II - Tiền đời vua Nguyễn Thế Tổ (1802 - 1819)
Ảnh 1.11.2. Tiền Gia Long thông bảo 嘉隆通寳, kiểu Chân thư - Lưng tiền đúc 2 chữ “Thất phân”-七分, đk 23mm

-Tiền Gia Long thông bảo 嘉隆通寳, lưng có chữ “Thất phân”-七分 đúc năm 1813.

“Quý Dậu, Gia Long năm thứ 12 [1813], mùa xuân, tháng giêng…Bắt đầu đúc tiền kẽm nặng 7 phân hiệu “Gia Long thông bảo”. Ở Bắc Thành có người Thanh là Trần Hiển Chu và Chu Vĩnh Cát xin tự mua kẽm để đúc tiền, lấy tiền kẽm 130 quan đổi lấy 100 quan tiền đồng ở kho. Thành thần đem việc tâu lên. Vua y lời xin. Sai đặt cục Bảo Tuyền ở cửa Tây Long ngoài thành. (Năm Thiệu Trị thứ 1, đổi làm cục Thông bảo). Lấy Cai cơ Trương Văn Minh làm Bảo tuyền cục đại sứ, Hiệp tổng trấn Lê Chất kiêm lãnh Giám đốc. Theo kiểu mẫu bộ Hộ đưa ra để đúc (tiền 1 quan, nặng 2 cân 10 lạng cân bình thiên, người dân có vốn riêng hoặc lãnh vốn công đều đem đến lò đúc để đúc. Khi thành tiền rồi, cứ 125 quan tiền kẽm đổi được 100 quan tiền đồng. Tiền mỗi quan phải đúng cân lạng, nếu thiếu từ 15 đồng trở xuống thì cho nộp phụ; 16 đồng trở lên thì huỷ đi không dùng. Pha lẫn chì thì có tội. Nhà nước đúc bằng kẽm Thái Nguyên, mỗi 100 cân hao 12 cân 8 lạng, thành tiền 33 quan 3 tiền 20 đồng, tiền vật liệu 6 tiền 13 đồng, tiền công thợ 2 quan 7 tiền 41 đồng, đại ước thành tiền, mỗi 100 đồng thì tiền công 8 đồng 2 phân 4 ly hào, 5 hốt”

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Gia Long thông bảo”- 嘉隆通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ mảnh, rõ ràng và sắc nét. Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Thất phân” -七分 theo kiểu Chân thư ở hai bên lỗ vuông. Biên trước và sau đều hẹp và nổi rõ. Tiền khá mỏng. Đường kính 23mm, dày 1mm, nặng 1,8gr.

Mặc dù, trong thư tịch chỉ ghi đúc tiền kẽm, nhưng trong thực tế, phát hiện cả tiền đồng. Đường kính tiền có khác biệt, chứng tỏ tiền được đúc nhiều lần.

Tiền triều Nguyễn (1802 - 1945) Kỳ II - Tiền đời vua Nguyễn Thế Tổ (1802 - 1819)
Ảnh 1.11.3. Tiền Gia Long thông bảo 嘉隆通寳 kiểu Chân thư, lưng tiền đúc hai chữ “Lục phân”- 六分 kiểu Triện thư, đk 23mm

- Tiền Gia Long thông bảo 嘉隆通寳, lưng tiền có hai chữ “Lục phân”- 六分, đúc năm 1814

“Giáp Tuất, Gia Long năm thứ 13 [1814]... Tháng 2... Đúc tiền đồng 6 phân hiệu “Gia Long thông bảo”. Sai cục Bảo tuyền Bắc Thành phỏng theo phép đúc tiền của nước Thanh mà làm. (Chỉ đồng đỏ 500 cân, kẽm 415 cân, chì 65 cân, thiếc 20 cân”.

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Gia Long thông bảo”- 嘉隆通寶 theo thể Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Lục phân”- 六分 theo kiểu Triện thư ở hai bên lỗ vuông. Biên trước và sau đều hẹp và nổi rõ. Tiền khá mỏng. Đường kính 22-23mm, dày 1mm, nặng 1,8gr. Tiền đúc nhiều nơi, nhiều lần, có loại bằng đồng, có loại bằng kẽm.

Tiền đúc dưới đời vua Gia Long được phát hiện nhiều nơi, số lượng cũng khá lớn. Ở trong kho không phải đếm từng đồng mà có thước đong làm bằng gỗ có 2 ngăn. Bỏ tiền đầy hai ngăn là 1 quan (600 đồng) rồi lấy dây xâu lại. Đây là thước đong tiền đời vua Gia Long.

Đón đọc Kỳ III: Thoi bạc Gia Long


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.