Thu hút FDI: Hướng tới mục tiêu chủ động, bình đẳng, chọn lọc
Nâng tầm hợp tác đầu tư nước ngoài tại Việt Nam | |
FDI giữa hai mảng sáng tối |
Hơn 30 năm thực hiện chủ trương mở cửa đất nước, cũng là khoảng thời gian tương ứng khu vực đầu tư nước ngoài (ĐTNN) song hành với sự nghiệp Đổi mới của Việt Nam. Đến nay, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã trở thành một bộ phận không tách rời của nền kinh tế. Đó là thông điệp xuyên suốt Hội nghị 30 năm thu hút ĐTNN tại Việt Nam với chủ đề “Tầm nhìn và cơ hội mới trong kỷ nguyên mới”, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 4/10.
Thủ tướng trao Bằng khen cho các cá nhân, tập thể có nhiều đóng góp trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài |
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, tổng kết 30 năm qua cho thấy, việc mở cửa thu hút vốn ĐTNN là một chủ trương đúng đắn, đã góp phần thực hiện thành công nhiều mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước.
“Cú hích” tạo đột phá
Nhìn lại chặng đường 30 năm thu hút ĐTNN, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng khẳng định, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong giai đoạn đầu, ĐTNN đóng vai trò như một “cú hích” tạo sự đột phá, vừa bổ sung nguồn lực quan trọng cho đầu tư phát triển, vừa khơi dậy các nguồn lực trong nước, để khai thác, tận dụng các tiềm năng, lợi thế, đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn.
Đến nay, với 184 tỷ USD được giải ngân trong 30 năm, ÐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ trọng vốn ÐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng từ gần 15% năm 2005 lên 23,7% năm 2017. Ðóng góp của ÐTNN vào GDP cũng ngày càng tăng lên. Nếu như năm 1995, khu vực ÐTNN mới chiếm 6,3% trong GDP, thì đến năm 2017 đã chiếm tới 19,6%.
Khu vực này cũng đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách, với giá trị nộp ngân sách tăng từ 1,8 tỷ USD giai đoạn 1994 - 2000 lên 23,7 tỷ USD trong giai đoạn 2011 - 2015, chiếm gần 14% tổng thu ngân sách. Riêng năm 2017 nộp ngân sách của khu vực này đạt 8 tỷ USD, chiếm khoảng 17% tổng thu ngân sách nhà nước.
Với 58,2% vốn ÐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, khu vực này đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như dầu khí, viễn thông, điện, điện tử... Cùng với đó, khu vực này cũng góp phần phát triển nhiều ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, logistics...; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu.
ÐTNN cũng đóng góp quan trọng cho thúc đẩy mở rộng thị trường xuất khẩu của Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Không chỉ vậy, ĐTNN trong 30 năm qua còn góp phần tích cực hoàn thiện thể chế kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường; nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị DN, hỗ trợ quá trình cải cách DNNN, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
“Những thành tựu nêu trên đã khẳng định đường lối mở cửa hợp tác với nước ngoài của Ðảng và Nhà nước là một quyết sách đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Cam kết đồng hành
Là quốc gia gắn bó với Việt Nam từ những ngày đầu thu hút vốn ĐTNN, gần đây số lượng các dự án đầu tư từ Nhật Bản đang tiếp tục có khuynh hướng tăng cao, ông Hironobu Kitagawa, Trưởng Văn phòng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tại Hà Nội chia sẻ, so với các quốc gia lân cận, Việt Nam được đánh giá cao nhờ những lợi thế cạnh tranh về chi phí nhân công; môi trường đầu tư ổn định; mức thu nhập đầu người tăng nhanh giúp quy mô thị trường mở rộng, đa dạng hoá lĩnh vực đầu tư...
Ông Nicolas Audier - đồng Chủ tịch Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (Eurocham) vui mừng cho biết, thời gian qua cơ quan này đã chứng kiến nhiều DN châu Âu thành công trong quá trình phát triển của Việt Nam. Mặc dù hiện nay thương mại toàn cầu đang ở giao điểm với sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ, song EU cam kết vẫn sẽ ủng hộ mạnh mẽ tự do hoá thương mại và thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế tại Việt Nam. “Với lý do này, EU hiện đang là nhà đầu tư lớn thứ 5 tại thị trường Việt Nam, và cam kết sẽ luôn mở rộng nguồn đầu tư cho Việt Nam”, ông Nicolas Audier nhấn mạnh.
Ông Kim Young Chul, Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội DN Hàn Quốc tại Việt Nam (Korcham) cũng đánh giá, trong lịch sử 30 năm thu hút ĐTNN vào Việt Nam thì 10 năm trở lại đây đã có những thành quả xuất sắc hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhiều DN Hàn Quốc đã từ bỏ các thị trường khác để sang Việt Nam. Dòng chảy này được dự đoán sẽ tiếp tục trong thời gian dài, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới biến đổi nhanh.
Từ thụ động sang chủ động
Vui mừng về những thành tựu to lớn của ĐTNN, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN luôn là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Sau 30 năm thu hút ĐTNN, đến nay Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác ĐTNN với nội hàm mở rộng hơn.
Tuy nhiên Thủ tướng cũng cho rằng, cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, kể cả những thua thiệt trong thu hút ĐTNN. Theo đó, các DN ĐTNN về cơ bản đang sử dụng công nghệ trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với khu vực. Chưa có nhiều tập đoàn đa quốc gia trong các lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Liên kết giữa khu vực ĐTNN với khu vực trong nước, và chuyển giao công nghệ chưa đạt như kỳ vọng, chủ yếu là gia công lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành thấp, giá trị gia tăng trên một đơn vị sản phẩm không cao. Một số dự án ĐTNN tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường; còn có biểu hiện báo lỗ - chuyển giá; đầu tư chui; không đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động...
Cùng với đó, chất lượng nguồn nhân lực, trình độ quản lý, hạ tầng… còn nhiều bất cập. Công tác quản lý FDI còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa trung ương và địa phương, thiếu các chính sách tốt để thu hút các tập đoàn đa quốc gia, công ty công nghệ cao…
“Các nhà ĐTNN mang vốn, công nghệ vào nước ta nhìn chung là rất quý, nhưng có tranh thủ được nguồn lực này cho phát triển, nâng cao quốc lực của đất nước hay không là trách nhiệm của chúng ta”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Với quan điểm đó, Thủ tướng cho rằng, hợp tác ĐTNN là mang tính chủ động, có sự bình đẳng, lựa chọn, không phải nhà đầu tư mang gì vào ta chấp nhận nấy và điều quan trọng là có lựa chọn, dần thoát khỏi gia công, lắp ráp đơn thuần, nâng tầm trình độ sản xuất, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế quốc gia.
Xuất phát từ thực tiễn của đất nước, Thủ tướng chỉ đạo, tiếp tục thu hút vốn ĐTNN để giải quyết lao động, việc làm ở các vùng nông thôn, miền núi. Còn khu vực thành phố phát triển, thị xã thì ưu tiên thu hút đầu tư kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao… Đây là quan điểm nhân văn của phát triển bền vững, bao trùm, chia sẻ thành quả phát triển với mọi người dân.
Cùng với đó, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, chính quyền địa phương tập trung làm cho được điều mà các nhà đầu tư luôn cần là giữ vững ổn định chính trị xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô. Đây là điều không dễ, đòi hỏi phải thống nhất tư tưởng, nhận thức về hợp tác ĐTNN và triển khai đồng bộ, sáng tạo các biện pháp về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
Luỹ kế đến ngày 20/9/2018, cả nước có 26.646 dự án ĐTNN còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 334 tỷ USD; và tổng vốn thực hiện khoảng 185,62 tỷ USD, bằng 55,5% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. |