Vẫn yếu khâu thương hiệu
Ba rào chắn cạnh tranh trên sân nhà | |
Những người nuôi dưỡng thương hiệu |
Ảnh minh họa |
Kể từ năm 2016, Cộng đồng ASEAN và nhiều Hiệp định tự do hóa thương mại, hợp tác song phương, đa phương có hiệu lực, sẽ đem lại cho ngành nông nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn, nguồn vốn và khoa học kỹ thuật hiện đại.
Điều này đòi hỏi DN trong ngành nông nghiệp nói chung và chế biến nông sản nói riêng phải ứng phó kịp thời trước mắt, có chiến lược và giải pháp lâu dài để hạn chế khó khăn, thách thức mà hội nhập mang lại ở một số ngành hàng có lợi thế và khả năng cạnh tranh yếu (như chăn nuôi, mía đường).
Về quản lý, Cục Chế biến nông - lâm - thủy sản và nghề muối (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) sẽ tăng cường thực chỉnh lý 04 Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm các cơ sở chế biến chè, điều, rau quả, cà phê nhân. Hoàn thiện hồ sơ công bố 12 tiêu chuẩn quốc gia về rau quả. Hướng đến nâng giá trị gia tăng cho nhiều mặt hàng nông sản Việt Nam ở thị trường nội địa và xuất khẩu.
Tuy năng lực chế biến của ngành tăng hàng năm và cả nước có trên 2.000 cơ sở chế biến nông sản quy mô công nghiệp đang hoạt động, nhưng trong một số lĩnh vực còn thiếu tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn kỹ thuật về nhà xưởng bảo quản, chế biến, công nghệ đảm bảo an toàn thực phẩm.
Như vậy, mặc dù đã chú trọng quy hoạch và phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến tiếp tục phát triển, nhưng về thực chất vẫn chưa đủ tầm để sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Về thị trường tiêu thụ nông sản cả trong nước và xuất khẩu đang phát triển, mở rộng. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông sản đạt 13,9 tỷ USD (giảm 2,8%).
Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất của một số nông sản xuất khẩu được coi là thế mạnh của Việt Nam (gạo, cà phê, cao su…) chưa cao, do vẫn chịu giá bán thấp hơn so với giá sản phẩm cùng loại của các nước xuất khẩu khác. Một số sản phẩm khác bị cạnh tranh mạnh bởi hàng hóa nhập khẩu (ngô, đỗ tương, bông, thuốc lá, sản phẩm chăn nuôi…).
Về sản xuất, việc làm theo kinh tế hộ nhỏ lẻ, ruộng đất manh mún đang ngày càng bộc lộ những hạn chế, yếu kém. DN hoạt động trong nông nghiệp còn ít, quy mô nhỏ, năng lực tài chính thấp, việc đổi mới các nông lâm trường quốc doanh thực hiện chậm.
Tình trạng lưu thông, sử dụng các loại vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y giả, kém chất lượng và sử dụng chất cấm trong sản xuất ngày càng tinh vi, phức tạp. Số lượng lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp và hàng nông sản có kết quả kiểm tra, đánh giá chưa đạt yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, song lại chậm được cải thiện.
Từ năm 2016, ngành nông nghiệp sẽ đặc biệt chú trọng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nhất là đối với rau, quả, chè… Ở thị trường trong nước, hướng dẫn nông dân áp dụng các quy trình sản xuất an toàn, phối hợp xây dựng các chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn. Tập trung xử lý cơ bản vấn đề sử dụng chất cấm trong chăn nuôi, nâng cao mức độ đảm bảo an toàn đối với các loại nông sản thực phẩm tiêu dùng trong nước.
Ở thị trường xuất khẩu, tiếp tục giải quyết vướng mắc về rào cản an toàn thực phẩm của các thị trường xuất khẩu, giúp đỡ DN đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu. Song song với đẩy mạnh công tác đàm phán, thỏa thuận với các nước nhập khẩu công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa.