Chỉ số kinh tế:
Ngày 4/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.152 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.946/26.360 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con thứ hai của vua Thiệu Trị, sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829) lên ngôi (tức vua Nguyễn Dực Tông), đặt niên hiệu Tự Đức (1848-1833). Vua Tự Đức là ông vua trị vì lâu nhất của triều Nguyễn (38 năm). Về chế đúc và lưu thông tiền tệ, vua Tự Đức thừa kế mọi chế độ của vua Minh Mệnh, vua Thiệu Trị và cũng cho đúc các loại tiền: tiền đồng, tiền kẽm, tiền bạc, tiền vàng để lưu thông, đồng thời cũng cho đúc tiền mỹ hiệu.
aa

Tiền đồng

- Tự Đức thông bảo 嗣德通寳

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức thông bảo”- 嗣德通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ nhỏ, nét chữ mảnh, rõ ràng.

Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Tiền khá mỏng. Đường kính 24,5mm, dày 1,1mm, nặng 3,5gr

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền Tự Đức thông bảo 嗣德通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 24,5mm

- Tự Đức thông bảo - Lục văn

“Tự Đức năm thứ 25 [1872]... Mùa đông, tháng 10… Sai cục Thông bảo tỉnh Hà Nội đúc tiền đồng nặng 7 phân chiếu theo như mẫu thức đồng tiền 9 phân mà đúc, một nửa bằng đồng, một nửa bằng kẽm. Mặt sau đồng tiền có khắc 2 chữ Lục văn”.

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức thông bảo”- 嗣德通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ nhỏ, nét chữ mảnh, rõ ràng. Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Lục văn”- “六文” theo kiểu Chân thư ở hai bên lỗ vuông, có nghĩa Loại tiền này được định giá một đồng ăn 6 đồng tiền kẽm. Biên trước và sau đều rộng và nổi rõ. Tiền rất mỏng. Đường kính 23,5mm, dày 0,9mm, nặng 2,5gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền đồng Tự Đức thông bảo 嗣德通寳, kiểu Chân thư - Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Lục văn” 六文, đk 23,5mm

“Tự Đức năm thứ 20 [1867], Tháng 6... Lúc bấy giờ tiền hiếm, sai 3 tỉnh Hà Nội, Bắc Ninh, Sơn Tây đúc nhiều tiền đồng để tiêu dùng”.

- Tự Đức thông bảo - Hà Nội

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức thông bảo”- 嗣德通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ mảnh, rõ ràng. Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Hà Nội”-河內 theo kiểu Chân thư ở hai bên lỗ vuông, có nghĩa nơi đúc tiền ở Hà Nội. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Tiền rất mỏng. Đường kính 22,8mm, dày 0,9mm, nặng 1,9gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền Tự Đức thông bảo 嗣德通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 2 chữ “Hà Nội” 河內, đk 22,8mm

- Tự Đức thông bảo - Sơn Tây

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức thông bảo”- 嗣德通寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ mảnh, rõ ràng. Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Sơn Tây”- 山西 theo kiểu Chân thư ở hai bên lỗ vuông, có nghĩa nơi đúc tiền ở Sơn Tây. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Tiền khá mỏng. Đường kính 23mm, dày 1mm, nặng 2gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền Tự Đức thông bảo 嗣德通寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 2 chữ “Sơn Tây”-山西, đk 23mm

Tương tự như 2 đời vua trước đây, vua Tự Đức và triều đình cũng tiến hành đúc các loại đại tiền, lưng có mỹ hiệu dùng cho việc ban thưởng và lưu thông. Bên cạnh đó, cuộc chiến của Pháp ngày càng nghiêm trọng ở Nam Kỳ, Triều đình Tự Đức phải đối mặt với một nguy cơ nghiêm trọng về chính trị cũng như về kinh tế tài chính. Tháng 2 năm Tự Đức thứ 14 (1861), Triều đình theo các đời Hàm Phong nhà Thanh (1851-1861) cho phát hành thêm tiền Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔 đưa vào lưu thông và được xem là loại tiền mệnh giá lớn. Sách Đại Nam thực lục cho biết: “Tự Đức năm 14 [1861], Tháng 2… Mới đúc 6 hạng tiền đồng (từ hạng tiền 1 đồng ăn 10 đồng, đến hạng tiền ăn 60 đồng. Mặt đồng tiền khắc 4 chữ ‘Tự Đức bảo sao’, hạng ăn 10 đồng thì nặng 1 đồng cân 5 phân đồng, hạng ăn 20 đồng nặng 3 đồng cân đồng, hạng ăn 30 đồng nặng 4 đồng 5 phân đồng, hạng ăn 40 đồng nặng 6 đồng cân đồng, hạng ăn 50 đồng nặng 7 đồng 5 phân đồng, hạng ăn 60 đồng thì nặng 9 đồng cân đồng)”…6 hạng tiền đồng từ hạng tiền 1 đồng ăn 10 đồng, đến hạng tiền 1 đồng ăn 60 đồng tiền kẽm. Trải qua bao lần thay đổi, loại này đã được ổn định, thuận lợi cho lưu thông.

Thống kê cho thấy các loại Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔 thông dụng gồm:

- Chuẩn thập văn 準十文

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức bảo sao”- 嗣德寳鈔, theo kiểu Chân thư. Lưng tiền đúc nổi 3 chữ Hán- “Chuẩn thập văn”- 準十文, nghĩa là một đồng ăn 10 đồng tiền kẽm. Đường kính tiền 27,9 mm, dày 1,16mm, nặng 6gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 3 chữ “Chuẩn thập văn”- 準十文

- Chuẩn nhị thập văn 準二十文

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức bảo sao - 嗣德寳鈔” theo kiểu Chân thư. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Chuẩn nhị thập văn - 準二十文”. Đường kính 30,9mm, dày 1,2mm, nặng 9,8gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ Chuẩn nhị thập văn 準二十文,đk 30,9mm

- Chuẩn tam thập văn 準三十文

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức bảo sao - 嗣德寳鈔”, kiểu Chân thư. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Chuẩn tam thập văn - 準三十文”. Đường kính 35mm, dày 1,2mm, nặng 16,4gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ Chuẩn tam thập văn 準二十文, đk 35mm

- Chuẩn tứ thập văn 準四十文

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức bảo sao - 嗣德寳鈔” theo kiểu Chân thư. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Chuẩn tứ thập văn - 準四十文”. Đường kính 39,9 mm, dày 2,5mm, nặng 17,3gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Ảnh 1.11.117.Tiền Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔, kiểu Chân thư, lưng đúc nổi bốn chữ “ 準四十文Chuẩn tứ thập văn”, đk 39,9mm

- Chuẩn ngũ thập văn 準五十文

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức bảo sao - 嗣德寳鈔” theo kiểu Chân thư. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Chuẩn ngũ thập văn - 準五十文”, nghĩa là một đồng ăn 50 đồng tiền kẽm. Có 2 loại cỡ, loại 1: Đường kính 41,5 mm, dày 1,5mm, nặng 11,9gr; Loại 2: Đường kính 43mm, dày 2,9mm. nặng 29,1gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Ảnh 1.11.118. Tiền Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ “Chuẩn ngũ thập văn” 準五十文, đk 41,5mm

- Chuẩn lục thập văn 準六十文

Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Tự Đức bảo sao”- 嗣德寳鈔 theo kiểu Chân thư đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền đúc nổi 4 chữ “Chuẩn lục thập văn”- 準六十文 theo kiểu Chân thư ở 4 cạnh lỗ vuông, có nghĩa tiền này giá 60 đồng. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Tiền khá dày.

Đây là tiền thưởng, có 2 loại cỡ, loại 1: Đường kính 44 mm, dày 1,9mm, nặng 16,7gr; Loại 2: Đường kính 50mm, dày 3,5mm, nặng 39,1gr.

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)
Tiền đồng Tự Đức bảo sao 嗣德寳鈔, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ “Chuẩn lục thập văn” 準六十文, đk 44-50mm

Đón đọc Kỳ I: Tiền đời Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883) - Tiền có mỹ hiệu


Nguồn: Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tái chiếm Sài Gòn, sau đó mở rộng ra đánh chiếm toàn Nam Bộ, khôi phục lại chế độ thực dân cai trị ở miền Nam. Ngân hàng Đông Dương được khôi phục lại ở Nam Kỳ và tiếp tục phát hành tiền tệ trong vùng chiếm đóng.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Năm 1943, Ngân hàng Đông Dương cho đúc hai loại đồng xu mệnh giá 5 cent chất liệu nhôm, hình tròn, lỗ tròn ở giữa. Hai đồng xu này chỉ khác nhau ở chỗ: một loại cạnh có răng cưa và loại kia không có răng cưa. Riêng loại có răng cưa hiện rất hiếm gặp.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền 1 cent: Trong hai năm 1940 và 1941, Ngân hàng Đông Dương cho đúc tại Hà Nội (Việt Nam) 3 loại tiền xu hình tròn, lỗ tròn ở giữa, chất liệu kẽm với mệnh giá 1 cent. Các đồng xu đều có đường kính 28,3mm, dày 1,6mm và trọng lượng 5,2gr.
Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine (1875 – 1885) - Tiền Bằng Bạc

Tiền Nam Kỳ thuộc Pháp - Cochinchine (1875 – 1885) - Tiền Bằng Bạc

Tiền kim loại bạc đúc trong giai đoạn này có 4 loại mệnh giá khác nhau: 1 piastre, 50 cent, 20 cent và 10 cent. Đồng 1 piastre được người dân quen gọi là “Đồng bạc Đông Dương” hay “Đồng bà đầm” nhằm phân biệt với đồng 8 Reals của Mê hi cô còn được gọi là đồng “Hoa xòe”, “Con cò” hay “Con ó”.