Chỉ số kinh tế:
Ngày 4/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.152 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.946/26.360 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Đời vua Minh Mệnh cho đúc bạc tròn, nhưng số lượng ít. Đời vua Thiệu Trị tiếp tục đúc bạc tròn, đa dạng hơn nhiều. Bạc tròn đời vua Thiệu Trị có 2 loại: Có lỗ vuông như tiền đồng và không có lỗ. Bạc tròn đúc ra vừa để lưu thông, nhưng cũng có thể dùng làm tiền thưởng. Bạc tròn đời vua Thiệu Trị có hai đặc điểm: có những hình tượng đẹp như con rồng bay lượn trên mây- long vân khế hội, nhật nguyệt tinh vân… Đồng bạc tròn Thiệu Trị được coi như là những tác phẩm nghệ thuật.
aa
Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ I: Tiền đồng, tiền kẽm Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ II: Tiền đồng lớn Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ III: Tiền đồng lớn

- Thiệu Trị thông bảo

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và gờ viền lỗ. Mặt tiền đúc nổi bốn chữ Hán “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶 theo kiểu Chân thư. Lưng tiền trang trí đề tài “Lưỡng long tranh châu”. Đường kính 52mm, dày 1,5mm, nặng 25,5mm.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, Lưng tiền trang trí “Lưỡng long tranh châu”, đk 52mm

- Thiệu Trị thông bảo - Nhị Nghi

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền lỗ và viền cạnh. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Nhị nghi”- 二儀 ở phía trên và phía dưới lỗ vuông. Bên phải trang trí hình mặt trời, bên trái là hình mặt trăng trong mây, tượng trưng cho âm dương, hai yếu tố cấu thành vũ trụ. Đường kính 29,8 mm, dày 1,1, nặng 7,4 gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 2 chữ Nhị Nghi 二儀, đk 29,8mm

- Thiệu Trị thông bảo - Tam thọ

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền cạnh và gờ viền lỗ. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶, kiểu Chân thư. Lưng tiền đúc nổi 2 chữ “Tam thọ” - 三壽, phía trên lỗ vuông, trang trí hoa văn mai, tùng, trúc. Cây mai tượng trưng cho tuổi hưởng thọ 100, cây tùng tượng trưng thọ 80 tuổi, cây trúc tượng trưng tuổi thọ 60. Đường kính 32 mm, trọng lượng 11 gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Tiền Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 2 chữ “Tam Thọ” 三壽, đk 32mm

- Thiệu Trị thông bảo – Tứ mỹ

Mặt tiền có 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶. Lưng tiền đúc 2 chữ “Tứ mỹ”- 四美 ở hai bên lỗ vuông.Trên có hoa văn hình mặt trời, mặt trăng, sao và mây. Phía dưới có 3 ngọn núi, mọc 3 cây, tượng trưng cho trường thọ. Đường kính 26 mm, trọng lượng 11gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 2 chữ “Tứ mỹ” 四美, đk 26mm

- Thiệu Trị thông bảo – Ngũ phúc

Mặt tiền có 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶, kiểu Chân thư. Lưng tiền có 2 chữ “Ngũ phúc”- 五福, ở hai bên lỗ vuông, trang trí 5 con dơi, tượng trưng cho ngũ phúc. Đường kính 42 mm, trọng lượng 18,5 gr, đúc vào năm Thiệu Trị lục niên (1846).

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 2 chữ “Ngũ Phúc” 五福, đk 42mm

- Thiệu Trị thông bảo – Triệu dân lại chi

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền lỗ và viền cạnh. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶 theo hàng dọc bên phải và 4 chữ “Triệu dân lại chi” - 兆民賴之 theo hàng dọc bên trái, kiểu Chân thư. Lưng tiền trang trí rồng mây (Long vân). Chúng tôi tiếp cận được 2 loại với kích thước khác nhau: Đường kính 33,5mm, dày 1,8mm, nặng 8,7gr và đường kính 35mm, dày 1,5mm, nặng 9gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶– Triệu dân lại chi 兆民賴之, Lưng tiền trang trí rồng mây (Long vân), đk 33,5-35mm

- Thiệu Trị thông bảo – Triệu dân lại chi

Tiền có dáng tròn, lỗ vuông, có gờ viền lỗ và viền cạnh. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶 theo hàng dọc và 4 chữ “Triệu dân lại chi”- 兆民賴之 theo hàng ngang, kiểu Chân thư. Lưng tiền trang trí rồng ẩn hiện trong mây. Đường kính 34,8mm, dày 1,5mm, nặng 8,9gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶– Triệu dân lại chi 兆民賴之, đk 34,8mm

- Thiệu Trị thông bảo – Phú thọ đa nam

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Tiền Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc 4 chữ “Phú thọ đa nam” 富壽多男, đk 52mm

- Thiệu Trị thông bảo - Vạn thế vĩnh lại

Tiền có dáng hình tròn, lỗ vuông gờ viền cạnh và viền lỗ. Mặt tiền đúc nổi 8 chữ “Thiệu Trị thông bảo, vạn thế vĩnh lại”- 紹治通寶,萬世永賴 theo kiểu Chân thư chia hai hàng dọc và trang trí nổi hoa văn hình mặt trời, mây, rong, tảo. Lưng tiền trang trí nổi bài thơ chữ Hán được chia thành 6 hàng dọc. Đường kính 66mm, dày 2mm, nặng 38gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo - Vạn thế vĩnh lại, kiểu Chân thư, đk 66mm

- Bạc Thiệu trị:

Bạc có dáng tròn, không có lỗ vuông, gờ viền cạnh có tia (bị mờ). Mặt tiền đúc nổi 2 chữ “Thiệu Trị”- 紹治, kiểu Chân thư. Lưng tiền trang trí nổi hoa văn cuốn thư. Đường kính 25mm, dày 1mm, nặng 2,6gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc Thiệu Trị 紹治, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc nổi hoa văn hình cuốn thư, đk 25mm

- Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶

Bạc có dáng tròn, có gờ viền cạnh theo hình răng cưa. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo”- 紹治通寶, theo kiểu Chân thư, đọc chéo, ở giữa đồng tiền có hình mặt trời toả sáng. Lưng tiền trang trí hình rồng bay (Phi long). Chúng tôi tiếp cận được 4 loại với kích thước (đường kính, dày, trọng lượng) tương ứng như sau: 31,5mm-2,1mm-13gr; 42mm-2,5mm-28,9gr; 42,8mm, 2,1mm, 26,2gr và 43,8mm-2mm - 26,6gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Tiền Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc nổi hình rồng bay (Phi long), đk 31,5mm-43,8mm

- Thiệu Trị thông bảo – Nhật nguyệt tinh vân

Bạc có dáng tròn và gờ viền cạnh. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiệu Trị thông bảo” - 紹治通寶 theo kiểu Chân thư, giữa trang trí hình tròn nhỏ có tia. Lưng tiền trang trí nổi hoa văn “Nhật nguyệt tinh vân” (Mặt trời, mặt trăng, sao và mây). Đường kính 23mm, dày 1,1mm, nặng 3,8,gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị thông bảo 紹治通寶, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc nổi hoa văn “Nhật nguyệt tinh vân”, đk 23mm.

- Bạc Thiệu Trị - Tỳ bà

Bạc có dáng tròn và có gờ viền cạnh. Mặt tiền có 2 chữ “Thiệu Trị” - 紹治. Lưng tiền, trên có chữ Vạn 卍, giữa có cây Tỳ bà, biên tiền có hình răng cưa. Đường kính 22 mm, nặng 4 gr.

Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Kỳ IV: Tiền bằng bạc
Bạc tròn Thiệu Trị 紹治, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Vạn”- 卍, đk 22mm

Đón đọc Kỳ V: Tiền đời vua Nguyễn Hiến Tổ (1841 - 1847) - Thoi bạc


Nguồn: Tác phẩm ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tái chiếm Sài Gòn, sau đó mở rộng ra đánh chiếm toàn Nam Bộ, khôi phục lại chế độ thực dân cai trị ở miền Nam. Ngân hàng Đông Dương được khôi phục lại ở Nam Kỳ và tiếp tục phát hành tiền tệ trong vùng chiếm đóng.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Năm 1943, Ngân hàng Đông Dương cho đúc hai loại đồng xu mệnh giá 5 cent chất liệu nhôm, hình tròn, lỗ tròn ở giữa. Hai đồng xu này chỉ khác nhau ở chỗ: một loại cạnh có răng cưa và loại kia không có răng cưa. Riêng loại có răng cưa hiện rất hiếm gặp.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền 1 cent: Trong hai năm 1940 và 1941, Ngân hàng Đông Dương cho đúc tại Hà Nội (Việt Nam) 3 loại tiền xu hình tròn, lỗ tròn ở giữa, chất liệu kẽm với mệnh giá 1 cent. Các đồng xu đều có đường kính 28,3mm, dày 1,6mm và trọng lượng 5,2gr.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền niken và hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền niken và hợp kim niken - đồng

Tiền 20 cent: Năm 1939, Ngân hàng Đông Dương đã cho đúc 3 loại đồng xu hình tròn có mệnh giá 20 cent bằng hợp kim niken - đồng, bao gồm đồng 1939 (a) xẻ rãnh (dọc cạnh đồng tiền, phía trong rãnh có hình x..x),đồng 1939 (a) không xẻ rãnh và đồng 1941S không xẻ rãnh.