Thách thức phát triển và lời giải
Cần cú huých cho ngành công nghiệp cơ khí | |
Ngành cơ khí yếu và thiếu sức cạnh tranh | |
Chế tạo, sản xuất ô tô chạy điện tại Việt Nam: Cần tư duy đi tắt đón đầu |
Sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CNCBCT), với mức tăng gần 13,6% trong quý I/2018 - mức tăng cao nhất trong 7 năm gần đây, đã đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng GDP. Tuy nhiên, nhìn vào chất lượng tăng trưởng ngành này, TS. Lương Văn Khôi, Phó giám đốc Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia cho rằng, vấn đề đối với phát triển CNCBCT hiện nay vẫn nằm ở “nút thắt” năng suất.
Ảnh minh họa |
Đi sâu vào câu chuyện này, theo TS. Lương Văn Khôi, chúng ta không thể cứ nói chung chung là năng suất lao động thấp và cần được nâng cao, mà Việt Nam cần có chiến lược phát triển ngành CNCBCT phù hợp hơn. Đặc biệt, cần quan tâm đến những nhóm ngành có năng suất lao động (NSLĐ) cao và tốc độ tăng trưởng NSLĐ cao, như các nhóm ngành sản xuất chế biến thực phẩm; sản xuất sản phẩm thuốc lá và sản xuất kim loại.
Đồng thời, cần có chiến lược phù hợp để thúc đẩy những ngành hiện nay có NSLĐ thấp nhưng có tốc độ tăng NSLĐ cao, như các nhóm ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế; sản xuất máy móc, thiết bị ...
“Để có được chiến lược phát triển của ngành CNCBCT cần phải phân ra nhóm ngành nào có NSLĐ cao, bởi vì tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào NSLĐ chung của nền kinh tế và của từng ngành”, ông Khôi nói.
Khi đề cập đến tăng năng suất thì không thể không nói đến tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) của từng tiểu ngành. Để tăng TFP thì cần xem xét các thành tố của nó bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật hay sự thay đổi về công nghệ, sự thay đổi hiệu quả kỹ thuật...
Sự thay đổi về hiệu quả kỹ thuật được phân rã thành sự thay đổi về hiệu quả kỹ thuật thuần tuý (do các yếu tố nội tại DN quyết định như trình độ máy móc thiết bị, trình độ lao động, trình độ quản lý) và sự thay đổi về hiệu quả quy mô (do các yếu tố môi trường bên ngoài quyết định như môi trường kinh doanh, thể chế, hội nhập quốc tế...). Trên cơ sở đó, định lượng các nhân tố tác động đến từng thành tố một để đề xuất giải pháp phù hợp.
Vậy, Việt Nam cần tập trung nâng cao NSLĐ vào nhóm ngành công nghiệp nào sẽ phù hợp? Về vấn đề này, TS. Lương Văn Khôi cho biết hiện tại, các nghiên cứu chỉ mới ở mức chung chung nên không quy trách nhiệm được. Do đó, cần nghiên cứu sâu đến các tiểu ngành cấp 2, cấp 3 mới thấy tiểu ngành nào có NSLĐ cao hay thấp và có tốc độ tăng NSLĐ như thế nào để có giải pháp phù hợp; và quy trách nhiệm trực tiếp cho từng bộ, ngành và từng người. Như thế mới có tiến triển, chứ nếu cứ chung chung thì mọi người không thấy trách nhiệm và cứ nghĩ “đó không phải là việc của mình”...
Ngành CNCBCT trong những giai đoạn trước đóng góp lớn cho thúc đẩy cải thiện NSLĐ, do có sự cải thiện can thiệp của khoa học kỹ thuật. Bên cạnh đó, hiệu quả về mặt quy mô, môi trường hội nhập quốc tế cũng như mức độ mở cửa cũng được cải thiện ở nhóm ngành chế biến chế tạo. Để đẩy mạnh hơn nữa lĩnh vực này, cần phải cải thiện môi trường kinh doanh mạnh mẽ hơn; cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của DN, đặc biệt là những nhân tố nội tại như chuyển đổi máy móc, thiết bị cũng như trình độ lao động và quản lý.
Đặc biệt, cần có cơ chế nâng cao sự kết nối giữa DN trong nước với DN FDI. Trong đó, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các DN với hệ thống đào tạo, dạy nghề theo mô hình mới, dựa trên nhu cầu của DN. Trên cơ sở đó, thiết kế chương trình đào tạo, tuyển dụng giáo viên đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Đối với các DN lớn có từ 300 lao động trở lên cần có trung tâm đào tạo. Nếu DN không có chức năng đào tạo, hàng năm cần có chương trình đào tạo lại khoảng 15% trên tổng số lực lượng lao động.
Bên cạnh đó, cũng cần mở cửa thị trường đối với các ngành dịch vụ, cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh, hội nhập quốc tế, cải cách thể chế để thúc đẩy những ngành khác tăng trưởng theo.