Việt Nam sẽ sạch và xanh hơn nhờ TPP
TPP: Từ kỳ vọng đến bài toán “lột xác” | |
Ký kết TPP: Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức | |
Hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cơ hội từ TPP |
Ràng buộc thương mại với môi trường
Hiệp định TPP là FTA đa phương thế hệ mới đầu tiên đưa các nội dung về môi trường thành một chương trong các cam kết. Điều này khẳng định vị trí của môi trường như một nhân tố quan trọng trong các hoạt động thương mại cũng như những đóng góp của thương mại đối với phát triển bền vững.
Chương Môi trường là chương thứ 20 trong tổng số 31 chương của Hiệp định TPP. Mục tiêu của chương này là thúc đẩy hỗ trợ lẫn nhau giữa chính sách thương mại và chính sách môi trường, thúc đẩy bảo vệ môi trường mức độ cao và thực thi có hiệu quả pháp luật về môi trường, cũng như tăng cường năng lực của các bên để giải quyết các vấn đề môi trường liên quan đến thương mại.
Bốn vấn đề nổi bật được đưa vào trong các cam kết thương mại của TPP gồm: Các cam kết về hàng hóa và dịch vụ môi trường; các cam kết về chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp; các vấn đề liên quan đến ô nhiễm đại dương và suy giảm nguồn tài nguyên thủy sản do hoạt động khai thác cá; thành lập ủy ban môi trường tại các quốc gia - điểm liên lạc quốc gia và cơ chế giải quyết các vấn đề thương mại - môi trường giữa các quốc gia.
Nhiều lĩnh vực và vấn đề môi trường có liên quan đến thương mại đã được đưa vào thành những nghĩa vụ cam kết mang tính chất ràng buộc và bắt buộc các nước thành viên phải thực thi.
Việc thực hiện các cam kết môi trường của TPP vừa tạo ra cơ hội, vừa là thách thức đối với Việt Nam. Trong đó về cơ hội, chấp nhận tự do hóa thương mại đối với hàng hóa và dịch vụ môi trường sẽ góp phần hỗ trợ Việt Nam giảm thiểu ô nhiễm với các công nghệ xử lý có chi phí thấp hơn, đồng thời giúp gia tăng các cơ hội kinh doanh cho ngành công nghiệp môi trường và tạo thêm nhiều việc làm trong lĩnh vực này.
Việc đáp ứng các quy định môi trường trong TPP có thể hạn chế tiếp cận thị trường của một số ngành lợi thế xuất khẩu của Việt Nam |
Việc chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp sẽ hỗ trợ tốt hơn trong quá trình chúng ta triển khai các hoạt động phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, cũng như sử dụng hiệu quả năng lượng.
Cùng với đó, các vấn đề về bảo tồn đa dạng sinh học sẽ được cải thiện, buôn bán trái phép các loại động thực vật quý hiếm sẽ được ngăn chặn. Việt Nam sẽ được hưởng các lợi ích và có cơ hội nhận được các tài trợ cho thực hiện các hoạt động thương mại bền vững do cơ chế hợp tác và trợ giúp của các nước phát triển trong khối.
Ngoài ra, Việt Nam sẽ được tham gia vào các hoạt động và sẽ có tiếng nói tốt hơn trong các hoạt động thúc đẩy thương mại bền vững do cơ chế tổ chức luân phiên về vị trí Chủ tịch của Ủy ban môi trường TPP.
Cơ hội cho phát triển bền vững
Tuân thủ các cam kết về môi trường cũng đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức. Việc đáp ứng các quy định môi trường bắt buộc sẽ hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam, trong đó một số ngành có lợi thế về xuất khẩu như thuỷ sản, dệt may, da giày, gỗ…
Ngành khai thác thủy sản xa bờ và các hoạt động xuất khẩu thủy sản từ đánh bắt của Việt Nam sẽ chịu thiệt hại do các yêu cầu về loại bỏ các trợ cấp đối với hoạt động đánh bắt và các quy định, tiêu chuẩn về chứng chỉ sản phẩm đánh bắt đạt tiêu chuẩn bền vững. Các hoạt động vận tải biển cũng sẽ gặp nhiều thách thức đối với sự gia tăng các tiêu chuẩn xả thải và các yêu cầu đáp ứng môi trường.
Việt Nam sẽ bị cạnh tranh khốc liệt trên thị trường nội địa đối với nhóm hàng hóa và dịch vụ môi trường và nhóm hàng hóa và dịch vụ hỗ trợ chuyển đổi sang nền kinh tế các bon thấp do mở cửa tự do hóa thương mại. Khi đó, hoạt động của ngành dịch vụ môi trường sẽ trở nên cạnh tranh hơn, gây sức ép không nhỏ đối với nhiều DN, đặc biệt là những DN đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước.
Hệ quả là các DN trong nước sẽ phải chia sẻ thị phần của mình hoặc phải chấp nhận đào thải do làm ăn kém hiệu quả. Việt Nam cũng có khả năng sẽ bị suy giảm nguồn thu từ thuế đối với nhóm các hàng hóa và dịch vụ này.
Một khó khăn nữa là Việt Nam sẽ phải minh bạch hóa quá trình ra chính sách, cung cấp thông tin và tạo thuận lợi cho các NGOs và cộng đồng tham gia vào quá trình tham vấn.
Chương Môi trường trong TPP chưa đặt ra những cam kết cụ thể về các con số cắt giảm thuế quan mà mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra các vấn đề và kêu gọi các quốc gia cùng hợp tác để cùng giải quyết.
Nhưng vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là cần có chính sách hội nhập như thế nào để đối phó với những rào cản môi trường đối với hàng hoá xuất khẩu và tận dụng những hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn môi trường khi TPP được chính thức phê chuẩn cũng như trong tương lai khi TPP có những cam kết mạnh mẽ hơn.
Để làm được điều này, cần thiết phải có những nghiên cứu về các tác động của hệ thống các cam kết môi trường trong TPP đối với các vấn đề thương mại và môi trường của Việt Nam, xác định những khó khăn và thuận lợi khi Việt Nam phải thực hiện các cam kết nói trên.
Đồng thời, cần nghiên cứu kỹ chính sách và pháp luật môi trường của các nước thành viên TPP để tránh những tranh chấp môi trường có thể nảy sinh trong tương lai.
Cùng với đó, cần nghiên cứu, hỗ trợ tăng cường năng lực cho các DN hoặc các ngành xuất khẩu Việt Nam có lợi thế khi tham gia TPP nhưng phải chịu các tiêu chuẩn và cam kết môi trường cao như kể trên. Việc thực hiện các cam kết về môi trường trong Hiệp định TPP sẽ đặt ra những thách thức không nhỏ đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, đây chính là cơ hội tốt để Việt Nam làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường, góp phần phát triển bền vững và hài hoà mối quan hệ giữa thương mại và môi trường, giúp nền kinh tế phát triển theo hướng xanh, sạch hơn.